Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên

Chương 86: Tận diệt


Thực ra, Tiêu Phục Huyên đã sớm nhận ra sự bất thường với thân thể mình, thậm chí từ trước khi gặp Ô Hành Tuyết trên thềm bạch ngọc ở Tiên Đô.

Có những thời điểm, y sẽ bất chợt thấy cả người mình chìm trong sát khí như thể có ai đó đang hút tiên nguyên và khí kình y từ xa.

Cảm giác đó dị thường khôn cùng, mà y không biết điểm đến phía bên kia là đâu và cũng không biết khi nào sẽ chấm dứt.

Ban đầu, y còn tưởng mình bị tà ma bỏ lén một loại cấm thuật nào đó trong lúc giao đấu với chúng. Nhưng số tà ma có khả năng hạ cấm thuật lên người y trong âm thầm không ai hay biết hiếm hoi đến mức gần như bằng không.

Y từng thử truy nguồn tìm ngọn, nhưng ràng buộc này tựa như một loại ảo ảnh, hễ tìm đến nửa đường liền mất bóng hoàn toàn mà không hề có dấu vết của phù chú hay bất kỳ một loại cấm thuật nào.

Y trấn thủ Nam Song Hạ, nơi có sát khí nồng đậm nhất Tiên Đô. Đây là việc đã được đề cập trong thiên chiếu y tiếp nhận năm đó. Nếu không thể trấn áp chỗ này sẽ dễ dàng khiến Tiên Đô chấn động. Nhỡ đâu có một ngày nó bị sụp đổ vì lý do nào đó thì người lãnh chịu hậu hoạn chính là bá tánh dưới nhân gian.

Bởi vậy, y nghiễm nhiên không lơi là cảnh giác. Không tìm được nguồn cơn cụ thể nên vào thời gian đó, y thường xuyên ghé qua Linh đài cho việc này.

Về sau, vào những lúc nghe người trên Tiên Đô hoặc dưới nhân gian nói “Thiên đạo Linh đài biết hết mọi việc”, y chỉ lạnh nhạt liếc nhìn rồi quay lưng rời đi.

Lý do chỉ một —

Nếu quả thật Thiên đạo Linh đài biết hết mọi việc thì tại sao không có cách nào nói cho y hay rốt cuộc ai đã hạ ràng buộc này trên thân thể y, để hút đi tiên nguyên và khí kình y mà không hay không biết?

Hoặc là Thiên đạo Linh đài không biết hết mọi việc, hoặc là đã biết đó là ai nhưng không muốn nói y biết, và cũng không định để y cắt đứt mối dây này, ngược lại còn để liên kết cứ tiếp diễn không ngừng.

Nếu rơi vào khả năng sau thì rất đáng để suy xét.

Bởi vậy, Tiêu Phục Huyên đã cực kỳ thờ ơ với Thiên đạo Linh đài từ rất lâu về trước.

Song tính tình y lạnh lùng cố hữu, hầu như không mang cảm xúc gì với rất nhiều chuyện ở đời. Sự thờ ơ lần này không ảnh hưởng gì nhiều, chẳng qua y chỉ không mang lòng tôn kính Thiên đạo, và bản thân việc đó không ảnh hưởng đến nhiệm vụ trấn thủ Nam Song Hạ cũng như không cản trở việc y trừng trị tà ma hoành hành tác loạn trên thế gian.

Chỉ là, có một khoảng thời gian rất dài, y có chút đề phòng Thiên đạo Linh đài.

Có lẽ vì sự đề phòng này, và cũng vì Nam Song Hạ có sát khí nặng nề quá đỗi nên không thích hợp làm nơi tĩnh dưỡng. Thế nên mỗi lần bị hệ luỵ từ sự ràng buộc vô cớ ấy dẫn đến tổn hại linh thần, y đều lấy đó làm lý do để đi tĩnh dưỡng ở một nơi bên ngoài Tiên Đô.

Quá hiếm địa điểm trên thế gian phù hợp dùng làm nơi tĩnh dưỡng cho y, hiếm đến gần như bằng không. Âu cũng vì y mang mệnh cách thật oái oăm.

Không biết kiếp trước, và kiếp trước nữa, y là người nơi đâu và đã từng làm những việc gì, mà chung quy từ lúc chào đời, trên người y đã nhiễm nặng sát khí. Thêm cả, linh phách y từng vỡ nát không thể thành hình vẹn nguyên, sau còn trải qua nhiều phen sinh tử nên sát khí kia mang cả oán khí mà chỉ người chết mới có.

Nếu đơn thuần nhìn vào mệnh cách thì dù có kết luận y là “lệ quỷ nhiều kiếp liền” cũng không cảm thấy phi lý.

Ấy thế mà y lại được triệu hoán thành tiên, từ đó khoác trên mình tiên khí sắc bén bậc nhất.

Chính nhờ có thân thể với sự mâu thuẫn này nên khi lên Tiên Đô, y mới trở thành người có khả năng trấn giữ Nam Song Hạ.

Và cũng chính nhờ có thân thể với sự mâu thuẫn này nên mỗi khi bị thương tổn, y rất khó tìm được một nơi để trị thương hiệu quả — đi đến nơi có tiên khí nồng đậm sẽ áp chế sát khí trời sinh trên người y, còn ngược lại đi đến nơi sát khí quá nặng sẽ ảnh hưởng đến tiên nguyên.

Tiêu Phục Huyên đã đến rất nhiều nơi trên thế gian, cuối cùng cũng tìm được một địa điểm đặc biệt. Y từng tiếp nhận vô số thiên chiếu nhưng tuyệt nhiên không một thiên chiếu nào chỉ về hướng đó.

Bởi nơi đó là một vùng rộng lớn thênh thang, hoàn toàn khoáng đãng, không người không tiên cũng vắng bóng tà ma. Nếu trên đời có một nơi được xem như vô thiện vô ác, vô sinh vô tử, thì ắt chỉ có duy nhất nơi này.

Nơi đó còn xa hơn cực bắc, được người ta gọi là phía ngoài cực bắc.

Sau này, người đời thường nghe rất nhiều lời đồn về nơi “phía ngoài cực bắc” này nhưng không một người nào có thể đặt chân đến, và cũng không một ai tới quấy rầy.

Thế nên sau đó, Tiêu Phục Huyên thường đến đây để điều dưỡng sức khoẻ, vạch ra kết giới và ngồi tĩnh toạ để hồi phục.

Y đã từng muốn cắt đứt mối ràng buộc vô danh kia và cũng đã thực sự tìm ra cách. Thế nhưng cuối cùng y đã không làm gì cả. Vì sau này y tình cờ phát hiện ra, bên kia mối ràng buộc chính là Ô Hành Tuyết.

Lúc phát giác được việc này, ngay đến Thiên Túc cũng không nói nên lời mà chỉ biết tự xoay ngược lời châm biếm về chính bản thân mình. Tới tới lui lui, người bên kia mối ràng buộc thế mà gần trong gang tấc, còn y phải mất ngần ấy thời gian mới nhận ra.

Có lẽ mỗi lần linh thần bị tiêu hao, y đều tránh ra bên ngoài cực bắc đến mấy hôm liền, lấy lý do nhận thiên chiếu để không quay về Tiên Đô, tránh làm người ấy lo lắng vô cớ.

Vì vậy, bọn họ vẫn luôn sít sao lỡ mất.

Mãi đến chuyến đi đến phố núi Lạc Hoa, y đứng dưới ánh đèn lồ ng chờ Linh Vương bước sang đầy khí khái.

Đêm hôm đó, y phát hiện cơ thể người kia lạnh căm như đóng băng, khí kình bị ngưng trệ, rõ ràng cơ thể rất khốn khổ mà gắng không thể hiện ra ngoài. Y phải khuyên nhủ dụ dỗ nhiều lần, người kia mới chịu nghe lời đến tĩnh toạ an dưỡng trên giường.

Y vốn định ở bên cạnh bảo vệ chút thôi, ngờ đâu người bên kia mới tĩnh toạ giây lát thì tiên nguyên và khí kình y đã xuất hiện biến động.

Phải gặp tận mắt trường hợp như vậy, y mới vỡ lẽ, ngọn nguồn mình mãi tìm nhưng không có kết quả lại vẫn luôn gần ngay trước mắt.

Bỗng dưng, ràng buộc thế ấy chẳng khiến y bận lòng mấy nữa.

Thế là về sau, Tiêu Phục Huyên không bao giờ nghĩ đến việc cắt đứt mối liên kết này.

Mà trái lại, y nghĩ đến hai vấn đề khác.

Thứ nhất, y muốn chuyển dạng ràng buộc này sang một cách khác, giấu nó đi kỹ hơn chút nữa.

Vì nếu y có thể phát hiện, đồng nghĩa một ngày nào đó Ô Hành Tuyết cũng sẽ phát hiện. Y hiểu rõ tính tình người kia, và cũng đoan chắc được phản ứng của người ấy một khi biết được chuyện này. Y không muốn nhìn thấy một Linh Vương khí khái dạn dĩ phải đau lòng hay áy náy.

Thế nên, tốt nhất là đừng bao giờ để bị phát hiện.

Hơn nữa… nếu y có thể tính được như vậy, thì không cớ gì Thiên đạo Linh đài lại không cả? Thiên đạo Linh đài biết rõ nhưng không có bất kỳ phản ứng nào mà còn để tai hoạ tiềm ẩn kéo theo rất nhiều hệ luỵ này tiếp diễn, lý do là gì?

Để hai người bọn họ kiềm chế lẫn nhau? Để mỗi người trong họ không bao giờ có thể vượt xa Linh đài?

Bất luận là nguyên do nào thì vẫn mang ý hạn chế trong đó.

Vừa kiềm chế mà vừa hạn chế, liệu rằng sẽ có một ngày bọn họ phải đối đầu lẫn nhau dưới sự thúc đẩy của Linh đài hay không?

Chưa chắc là không thể.

Dù gì trong quá khứ, y đã nhìn thấy Ô Hành Tuyết lần đầu tiên trong hoàn cảnh hai người đao kiếm đương đầu.

Có một quãng thời gian rất dài sau đó, Tiêu Phục Huyên mãi nghĩ đến “xác suất” nhỏ nhoi kia, y cần phải làm gì đó, hoặc phải để lại gì đó để nhỡ đâu có một ngày hai người thật sự ở hai chiến tuyến thì vẫn còn một đường lui để cứu vãn.

Mỗi lần ra bên ngoài cực bắc để an dưỡng, trong không gian tĩnh lặng không gì quấy nhiễu đầu óc, y đều sẽ dành thời gian dài suy ngẫm về vấn đề này.



Tiêu Phục Huyên nỗ lực thử không biết cơ man là cách, cả công khai lẫn bí mật, cuối cùng cũng tìm được một phương pháp tạm xem là thích đáng.

Thật ra, y đã nghĩ ra giải pháp và cũng chuẩn bị trước một ít rồi. Kế hoạch gần như được bắt tay vào thực hiện, chỉ chờ đúng thời điểm là ngày giải quyết xong tà ma ở bên ngoài Vân Nam.

Ấy thế mà… những sự việc kia lại xảy ra vào đúng ngày hôm đó.

Ngày hôm đó, y bị tà khí quấy nhiễu lúc quay trở về Tiên Đô.

Việc này cũng không nghiêm trọng gì cho lắm, ngoại trừ đám tiểu đồng tử mà Ô Hành Tuyết ép y phải nhận cứ quen thói nhao nhao lên thì y không cảm thấy ảnh hưởng gì, chỉ cần nghỉ ngơi một chút sẽ khoẻ lại ngay.

Ngờ đâu, y nghỉ ngơi chưa tới nửa khắc thì tiên nguyên và khí kình chợt bắt đầu chuyển động và ào ạt tràn về một hướng nào đó. Thành thử, sự quấy nhiễu vốn không đáng bận tâm lại bất ngờ trở thành một mối phiền phức.

Vòng xoáy bị trấn áp bên dưới Nam Song Hạ đột ngột xao động, sát khí ngợp trời bủa trào cuồn cuộn đến độ muốn nuốt chửng Nam Song Hạ vào trong.

Khoảnh khắc đó, Tiêu Phục Huyên đang trấn ngay tâm điểm thì dường như xuất hiện ảo giác. Thân thể y như không đang ở Tiên Đô, cũng không đang ở Nam Song Hạ gì đó, mà đã trở về Kinh Quan nơi chôn vùi hằng hà nấm mồ. Nơi ấy cũng là nơi mang sát khí nặng nhất nhân gian. Một vài phần linh phách y từng sống và trấn giữ nơi này, suốt ngày thâu đêm lắng nghe tiếng vạn quỷ khóc gào trong sát khí, để chúng cắn nuốt linh hồn.

Cảm giác ấy tồi tệ khôn cùng, hiếm người nào có thể chịu đựng nổi, và tiên cũng không ngoại lệ. Bằng không thì sao cả một Tiên Đô rộng lớn đến vậy mà chỉ mỗi mình y có thể trấn giữ chỗ này.

Song, khi sát khí Thiên Túc thượng tiên bít bùng trong gió đất, lòng y lại lo lắng rằng “Sao lần này nghiêm trọng đến thế, không biết tình huống ở Toạ Xuân Phong ra sao rồi.”

Cũng chẳng rõ sát khí rung động Nam Song Hạ thế này liệu có ảnh hưởng gì đến người đang tĩnh toạ an dưỡng ở Toạ Xuân Phong hay không.

Nghĩ vậy, y không muốn trì hoãn thêm chút nào nữa.

Ngay lúc đó, hàng mày Tiêu Phục Huyên nhíu chặt lại, y ngưng tụ và trích máu từ đầu tim mình hết lần này đến lần khác để dùng làm sức ép hòng đóng ngược sát khí đang bao trọn Tiên Đô trở lại từng chút từng chút một. Mỗi lần ép nó xuống một tấc, máu trên mặt y lại phai đi một ít, thế nhưng khí thế băng giá căm căm kia chẳng mảy may suy suyển.

Ngày hôm đó, tất cả mọi người trên Tiên Đô đều chứng kiến sát khí ngợp trời tràn ra khỏi Nam Song Hạ cuồn cuộn như biển, hung hãn kinh hoàng, tưởng chừng muốn nuốt chửng toàn bộ Tiên Đô.

Tuyệt cảnh hang trời trên chín tầng mây của họ rung chuyển không ngừng, thậm chí trên thềm ngọc cầu ngọc đã có dấu hiệu nứt gãy, dư chấn lan rộng khiến núi Thái Nhân và tháp tiên nối lên Tiên Đô cũng không yên ổn, e rằng đêm ấy bá tánh nhân gian chẳng thể ngủ được một giấc an lành.

May thay… còn có Thiên Túc thượng tiên.

Gần như bọn họ đều tận mắt chứng kiến luồng sát khí kia bị rút ngược về cung phủ Thiên Túc, rồi đóng lại vào dưới thềm ngọc thạch từng tấc từng tấc một như thế nào.

Sau khi chấn động dần suy giảm, bọn họ hấp tấp chạy tới Nam Song Hạ hòng gửi lời cảm tạ hoặc thăm hỏi tình hình, ngờ đâu nhận được câu trả lời của các tiểu đồng tử rằng: “Đại nhân nhà ta không ở trong cung phủ.”

Đúng là Tiêu Phục Huyên không ở đó.

Ngay sau khi trấn áp hoàn toàn sát khí xuống dưới, y gần như không nấn ná một khắc nào đã lập tức xới ngàn dặm đất để đến bên ngoài cực bắc.

Sự bất thường đêm hôm nay khiến lòng y bồn chồn không nguôi.

Người y đã chịu tổn thương lại còn phải trấn áp sát khí, khó tránh việc tiên nguyên và khí kình bị sát khí bào mòn đôi chút. Khi đó lại trùng hợp thời điểm quá trình tĩnh dưỡng của Ô Hành Tuyết bị gián đoạn, ước chừng người bên kia đã hồi phục vài phần.

Nhân cơ hội có quãng nghỉ này, y muốn tận dụng tiến hành việc mình sớm định làm từ lâu nhằm đánh đổi sự an tâm lâu dài.

Bên ngoài cực bắc quanh năm tuyết trắng, giương mắt về phương xa chẳng thấy nổi ranh giới.

Tiêu Phục Huyên chưa chạm chân xuống đất đã tung ra kết giới bao bọc cơ thể mình bên trong, lướt qua màn tuyết mà chẳng lưu lại dấu vết.

Y cụp mắt ngồi chỉn chu dưới nền trời tuyết đậm, gác thanh trường kiếm sang một bên. Tiếp đó, những hạt tuyết trắng nhờ bất chợt cuộn lên bao bọc thân thể y theo dòng lưu chuyển của khí kình, nhốt người y vào bên trong màn sương tuyết.

Đến khi sương tuyết mịt mùng rơi xuống để lộ người ngồi trong kết giới, mới thấy giữa môi Tiêu Phục Huyên hiện sắc máu đỏ thẫm, trong tay y là ba thanh đinh tang màu đen.

Từ xưa đến nay, không một ai tỏ tường tác dụng của ba cây đinh tang này. Trên thế gian có lời đồn nói rằng, “đinh tang” nghe qua như có liên hệ mật thiết đến sinh tử, không mang điềm lành. Bởi vậy nên khi ba thanh đinh vuông nhọn góc phủ sát khí nặng nề đóng trên xương tai của một vị thượng tiên càng lộ rõ sự mâu thuẫn đến tột độ.

Chỉ một mình Tiêu Phục Huyên mới hiểu rõ, tuyệt đối không được tháo ba thanh đinh tang này ra.

Khi xưa linh phách y vỡ vụn và tan vào những dòng rối loạn đó. Mỗi lần Ô Hành Tuyết chặt đứt một dòng, phần linh phách kia mới thoát được một ít. Mãi đến khi các dòng rối loạn ở Kinh Quan bị chém sạch sẽ, hết thảy linh phách vụn vỡ của y cuối cùng đã quay về chốn cũ. Và từ đấy, trên thế gian mới có một Tiêu Phục Huyên.

Chẳng là, linh phách vỡ vụn rồi nào dễ gì khôi phục nguyên vẹn như lúc ban đầu được nữa. Thêm cả, linh phách Tiêu Phục Huyên trời sinh đã thế thì càng khó cách nào có thể đột ngột dung hoà.

Ba thanh đinh tang kia cũng hơi tương tự như đinh đóng quan tài dưới nhân gian, tác dụng của nó là nối những mảnh vụn linh phách y lại với nhau và đính chặt chúng vào thân thể. 

Đinh tang đã đóng hàng mấy trăm năm nay, chưa một lần rời khỏi xương tai y.

Đây là lần đầu y tháo nó xuống. Linh phách y vỡ vụn trong thân thể.

Thật dị thường…

Nguyên trạng linh phách y là mảnh vỡ, chúng chỉ được nối lại với nhau bằng ngoại lực mà thôi. Thế mà sau khi gỡ đinh tang xuống để chúng trở về những mảnh vụn, y vẫn cảm nhận được cơn đau giằng xé khi linh phách bị chẻ nát.

Không chỉ một đường, mà nó gồm vô vàn những vết nứt không sao đếm xuể, rách toạc ra từ những vị trí khác nhau. Không khác gì có hằng hà những miệng vết thương chưa kịp lành lặn hoàn toàn đã bị xé mạnh ra lần nữa.

Dẫu có là trời sinh thành quen thuộc như Thiên Túc thượng tiên thì vẫn không tránh khỏi rướm máu bờ môi.

Y mím môi trong mùi máu tanh nồng, tháo túi gấm bên hông ra. Bên trong túi gấm là tinh chất bạch ngọc đã được chuẩn bị từ trước. Mỗi lần đến phố núi Lạc Hoa, y đều cố tìm chút tinh chất bạch ngọc còn sót lại hoặc rơi vãi đâu đó. Y không biết tinh chất bạch ngọc ra đời từ đâu, nhưng y biết có ai đó rất yêu chuộng nó.

Y cúi đầu, rút sống một phần linh phách mình ra ngoài, dung hoà nó vào bạch ngọc, rồi cẩn trọng đẽo tinh thể bạch ngọc kia thành hình.

Y muốn đẽo tượng thần Linh Vương, khắc ấn thờ vào sau lưng tượng thần và kết nối ấn thờ với linh phách trong tinh chất bạch ngọc ấy. Để từ nay về sau, mỗi khi Ô Hành Tuyết cần điều dưỡng sức khoẻ, thì hết thảy mọi ràng buộc đều nằm trên bức tượng bạch ngọc này, tiêu hao phần linh phách mà y tách ra trước chứ không hiển hiện trực tiếp trên thân thể y.

Nhờ đó, y sẽ không cần tránh đi Toạ Xuân Phong và nhốt mình ở bên ngoài cực bắc này. Mà y có thể hành xử như thường lệ, vén mành bước vào và ngắm nhìn người kia dần dà hồi phục, để thấy người kia lần nữa lộ ra nét mặt hồng hào và nụ cười sáng trong.

Y không bao giờ quên cảnh tượng có một dịp mình bước vào Toạ Xuân Phong và trông thấy Ô Hành Tuyết nghiêng đầu ngồi tựa trên thành trường kỷ mà ngủ một giấc chẳng an lành, bên cạnh người là con hát bằng giấy đang khua chiêng ầm ĩ.

Trong tiếng hát ca í ới, y nhíu mày nhìn người kia mà lòng trỗi lên xót xa vô cớ.  

Cho dù Ô Hành Tuyết đã an ủi và lừa gạt bằng rất nhiều lý do thì y vẫn có thể thấy rõ, người ấy không thích không gian yên tĩnh quá mức, và cũng không thích đơn độc một mình.

Y muốn nói… sau này sẽ không phải như thế nữa.

Tiêu Phục Huyên rủ mắt nhìn, tượng thần bằng bạch ngọc đang xoay nhẹ trong luồng kiếm khí từ ngón tay y.

Rõ ràng là một người sinh ra với gương mặt lãnh đạm đến tột cùng, mà hành động luôn đậm dấu tình thâm.

Tượng thần trên tay y đã hòm hòm nên hình, người được chạm có dáng vẻ thon cao đ ĩnh đạc, phong thái tuấn tú oai phong, trên tay cầm một thanh trường kiếm, trông rạng ngời như nắng ấm (1).

(1) Gốc là “húc nhật chiêu quang”, trong đó chữ “chiêu” là cùng chữ “Chiêu” tên tự của Linh Vương.

Y khẽ híp mắt, cong ngón tay khỏ nhẹ lên bức tượng ngọc một chút và cất giọng trầm thấp gọi, “Ô Hành Tuyết…”

Y muốn hỏi: Ngươi đó muốn đeo chiếc mặt nạ ấy không?

Thế nhưng y chỉ kịp gọi tên thì ngón tay chợt khựng, rồi thốt nhiên ngẩn người.

Nháy mắt đó, linh phách chưa lành lặn trong cơ thể y thình lình chấn động, cảm giác hệt như đạp hụt bước từ vách núi cheo leo. Tim y đánh dồn mạnh mẽ rồi bất chợt thít lại như đang bị một bàn tay vô hình siết chặt, sau một lúc lâu mới từ từ được thả ra.

Khi máu chảy xuôi trong huyết mạch, cảm giác hốt hoảng vô cớ bất chợt tuôn trào…

***

Trong thế giới của phàm nhân, người ta gọi đây là linh cảm của con tim.

Có lẽ đó thật chính là linh cảm của con tim đấy, bởi thế nên vào khoảnh khắc Ô Hành Tuyết chẻ đôi thần mộc, trừ khử tiên nguyên và quỳ sụm xuống đất, thì người ở bên ngoài cực bắc xa xôi cũng bất giác cảm thấy đau buồn xâu xé tâm can.

Khoảnh khắc đó thật ngắn ngủi, nhưng cũng quá đỗi dài lâu.

Ngắn ngủi đến độ không một ai kịp nhận biết chuyện gì vừa xảy ra đặng có bất kỳ phản ứng nào. Ngắn ngủi đến độ tiểu đồng tử ở Nam Song Hạ chỉ mới vừa chạy qua một chiếc cầu vòm, ngắn ngủi đến độ hai anh em cậu nhóc ở Toạ Xuân Phong còn chưa kịp lau đi nước mắt tuôn trào chẳng rõ nguyên do.

Đã từng, Tiên Đô cũng có những người bị giáng xuống nhân gian, để từ khoảnh khắc người đó không còn là tiên, tất cả những người khác sẽ dần quên mất họ.

Khi vẫn còn là Linh Vương, Ô Hành Tuyết đã từng tiễn đưa rất nhiều cố hữu. Chàng đã từng rung chuông bạch ngọc cho rất nhiều người, dẫn họ vào một giấc mộng an lành, để khi họ tỉnh khỏi giấc mộng ấy sẽ không còn nhớ rõ gì nữa, và nhờ vậy cũng sẽ không cảm thấy khổ đau nữa.

Chàng đã tiễn đưa nhiều người như thế đấy…

Song đến lượt chàng thì hoàn toàn khác hẳn.

Có lẽ vì được hoá thân từ thần mộc, có cùng căn nguyên với Thiên đạo và tách biệt với chúng tiên của Linh đài nên chàng trở thành một sự tồn tại đặc biệt. Hoặc cũng có lẽ quá trình chàng chẻ linh phách thần mộc và tự trừ khử tiên nguyên đã thật sự đả kích Thiên đạo Linh đài đè nặng bên trên Tiên Đô, nên chàng phải gánh nhận hình phạt nặng nề hơn bất kỳ một ai khác.

Trước đây, hình phạt cho Vân Hãi và những người kia là trôi dần vào quên lãng.

Còn hình phạt cho Linh Vương là tận diệt…

Ngay thời điểm tiên nguyên hoàn toàn biến mất, hết thảy ký ức về chàng đã bị xoá sạch khỏi thế gian.

Tiểu đồng tử ở Nam Song Hạ đang hối hả gửi một phong thư đến đại nhân nhà chúng. Mà khi chấm bút vào mực son thì bỗng quên mất định nói gì.

Cậu nhóc cầm bút trên tay, ngẩn ngơ tựa người vào thành bàn một lúc lâu mới giật mình hoàn hồn khi một đồng tử khác chạy vào trong nhà và hỏi, “Cậu lấy bùa ra làm gì thế?”

Cậu ta đăm chiêu mãi mới thẫn thờ đáp, “Tôi… tôi quên mất rồi.”

Cậu nói tiếp, “Hình như tôi có chuyện gì rất quan trọng cần bẩm báo cho đại nhân, nhưng mà… tôi quên rồi.”

Mấy tiểu đồng tử vừa chạy qua cây cầu vòm ngoái đầu hối thúc nhóm bạn đằng sau, “Nhanh lên, sắp tới…”

Cậu đang nói, bất chợt nét âu lo trên gương mặt bị thay thế bằng sự nghi ngờ, bước chân cậu cũng chậm lại.

Cả đám vừa hấp tấp xô đẩy nhau xuống cầu, rồi giờ ai cũng lần lượt chững người, chúng nhìn nhau một hồi rồi ai cũng thắc mắc, “Khoan đã, tụi mình… tụi mình định đi đâu vậy?”

“Ờm…”

“Lạ quá, đang yên đang lành sao tụi mình phải rời khỏi phủ vậy?”

“Không biết nữa.”

“Kỳ ghê, sao tôi thấy đau lòng quá.”

“Tôi cũng vậy… sao đau lòng quá đi mất.”

Mấy tiểu đồng tử thừ người giây lát mà cảm thấy mệt mỏi cùng cực mà chẳng rõ nguyên do. Trước giờ chúng chưa từng phải đau lòng đến thế.

Cùng lúc đó, hai tiểu đồng tử ở Toạ Xuân Phong đang chạy giữa gió đêm thổi trên Tiên Đô. Chúng băng qua một vùng sương mù lạnh giá, và không bao giờ bước ra ngoài nữa…

Tương tự như cơn gió xuân Linh Vương gửi lên đây, chúng nó đã tan biến trong đêm thâu, không gợn mây khói.

Toạ Xuân Phong ở một góc xa xa trên Tiên Đô giăng những dây đèn dài tít tắp. Ánh đèn dầu sáng ngời nối nhau thành dãy cũng tắt ngúm trong nháy mắt, từ bấy về sau chẳng bao giờ rạng lên lần nữa.

Tuyết lớn phủ ngợp trời bên ngoài cực bắc, cơn đau xé toạc linh phách dai dẳng lặp đi lặp lại trên cơ thể Tiêu Phục Huyên như thể sẽ kéo dài bất tận. Bởi thế, có một khoảnh khắc nào đó, y bất chợt nhen lên ảo giác như thể đó không chỉ là cơn đau của linh phách mình.

Nhưng ngoại trừ chính mình ra thì còn ai nữa?

Còn ai khác sẽ…

Cuối cùng, cơn đau dai dẵng kia cũng dần nguôi ngoai, Tiêu Phục Huyên mở mắt, hai tròng mắt y hoen đỏ. Y cau mày thật chặt, yên lặng cụp mắt nhìn món đồ mình đang cầm trên tay.

Đó là một pho tượng bằng bạch ngọc, dáng vẻ thon cao đ ĩnh đạt, phong thái tuấn tú oai phong, trên tay có cầm một thanh trường kiếm. Thế nhưng bức tượng này không tên không họ, và cũng không có gương mặt.

Có lẽ chính bản thân y đã tự tay chạm nên bức tượng này.

Thế nhưng người được chạm trong tượng là ai, và vì sao y lại gỡ đinh tang rồi ngồi giữa bão tuyết?

Y nhìn khoảng trống nơi gương mặt tượng thần hồi lâu mà mãi vẫn không nhớ nổi.

Chắc rằng y đã quên mất chuyện gì đó, cũng vì thế mà thế giới này khuyết đi một mảnh.

Từ đấy về sau gần ba trăm năm, nó chẳng bao giờ vẹn tròn trở lại.

❄︎

Lời tác giả:

Tui sửa lại mấy lần, mọi người chờ lâu rồi QAQ

Cá:

Ồ mình khá là bất ngờ vì tác giả đã xoá luôn ký ức của Tiêu Phục Huyên ở đây…