Trong một trăm năm sau đó, Ô Hành Tuyết đã gặp phải “hành hương” như vậy rất nhiều lần.
Nhiều đến mức khi phải chứng kiến lần nữa, nét mặt chàng đã chẳng còn để lộ chút ngạc nhiên hay bất ngờ gì, nhiều đến mức chàng có thể vung ra sương giá phủ trọn toàn bộ mỗi một lần đám tà ma cấp thấp kia lùa về như vũ bão.
Nhiều đến mức chàng có thể bóp chặt cái đầu chúng với một gương mặt không mảy may xúc cảm, siết cổ chúng mà chẳng màng chớp mắt.
Đám tà ma thường trợn trừng đôi mắt vào lúc chết, trong mắt chúng sẽ lộ ra từng tầng từng lớp vui buồn lẫn lộn. Vui buồn ấy là những dấu vết mà người sống chúng từng cắn xé lưu lại trên cơ thể chúng.
Chàng luôn lẳng lặng nhìn những dấu vết còn lưu lại đó, nhìn chúng dần dà xuất hiện rồi chầm chậm tan biến.
Trong khoảnh khắc ấy, nếu có người từ bên dưới ngước nhìn lên chàng thì sẽ nhận ra lòng bi mẫn thấp thoáng trong đôi mắt ma đầu danh tiếng lẫy lừng.
Tiếc thay, bên dưới mắt chàng chỉ toàn những tà ma đã chết, và không một ai nhìn thấy ánh mắt ấy cả.
Rồi đến khi chàng dời mắt khỏi những sinh vật chết và ngước lên, hết thảy đã trở về biểu cảm tĩnh lặng thường nhật.
Ô Hành Tuyết đã sớm quen với việc này.
***
Chàng chọn một địa điểm trong toà thành bỏ hoang ở phía nam và gieo nửa linh phách còn lại của thần mộc xuống đây. Một nửa linh phách này nhanh chóng đâm chồi nẩy lộc, sinh trưởng thành gốc đại thụ rợp trời giữa miệt hoang dã, trông có nét hao hao thần mộc thuở nào. Ấy nhưng dẫu tán cây cao lớn ngút trời, nó không bao giờ trổ hoa lần nữa.
Rõ ràng nó mang dáng dấp của một thân cây xanh tốt phồn vinh, thế mà trên thân lại toát ra tử khí dày đặc lan tràn khắp mấy dặm. Cũng vì thế, các loài chim muôn đều không dám sà xuống thân cây này.
Sau đó, chàng dựng một sân vườn quanh gốc đại thụ, xây hành lang và lầu các khác hẳn với những toà cung phủ bằng ngọc thạch thường thấy ở khắp mọi nơi trên Tiên Đô. Dường như chàng chẳng bao giờ dùng đến bạch ngọc trắng ngần láng bóng kia nữa. Thay vào đó, trong sân đặt đủ loại đá tảng xanh sẫm, xám trắng, đen hoặc nâu đỏ như màu máu.
Rồi về sau chàng cũng hiếm khi nặn con hát bằng giấy để tạo không khí sôi động nhằm đi vào giấc ngủ yên.
Căn phủ trạch rộng lớn là thế song luôn tĩnh lặng, dẫu có người cũng không ai dám lớn tiếng, vì họ sợ…
Rất nhiều người e sợ chàng, bá tánh nghe đến tên cũng sợ mà tà ma tề tựu về cũng sợ. Dường như chỉ cần bước chân qua cổng Tước Bất Lạc thì hễ là sinh vật còn sống đều sẽ hạ thấp giọng theo bản năng.
Vì vậy, căn phủ trạch đó lắm lúc im lìm đến tĩnh mịch, và Ô Hành Tuyết sống giữa sự tĩnh mịch ấy.
Về sau có người cả gan hỏi, không biết có phải chàng rất ghét ồn ào náo nhiệt hay không.
Khi ấy chàng đang lúc thẫn thờ, đuôi mắt hơi cụp xuống khiến nét mặt lộ vẻ mệt mỏi. Người hỏi câu ấy chờ mãi không nhận được trả lời thì tưởng rằng mình lỡ lời, vừa định vội vàng nhận lỗi thì chợt nghe chàng mở miệng nói, “Không hẳn.”
Người hỏi câu ấy nhận được đáp án này thì ngạc nhiên vô cùng, vừa định hỏi tiếp đã nghe Ô Hành Tuyết nói, “Nhưng yên tĩnh vẫn tốt hơn.”
Đối với chàng hiện tại, yên tĩnh vẫn tốt hơn.
Trước đây, chàng đã từng nỗ lực hết mình để quên đi tiếng thét gào và than khóc của những người mất mạng dưới lưỡi kiếm mình. Còn hiện tại, chàng bắt buộc bản thân phải nhớ rõ những điều đó…
Chàng bắt buộc phải nhớ rõ từng thứ một, tuyệt đối không được quên. Bằng không, chàng sẽ đâm quen với thói sát sinh không kiêng kỵ của tà ma.
Chàng đã đâm quen với quá nhiều thứ rồi.
Chàng buộc phải nhớ rõ đây không phải lý do mình đi đến bước đường này.
***
Từ khi nhân gian xuất hiện một Ô Hành Tuyết, đám tà ma gây loạn mọc lên từ bốn phương đã dần dà có sự thay đổi.
Lúc trước, tà ma có thể hiện ra từ bất cứ một nơi nào mà chẳng có dấu hiệu báo trước, cũng không cách nào ngừa được. Dù cho Thiên Túc mới bình định thung lũng chưa được mấy năm, tà ma mới đã rục rịch xuất hiện.
Mọi người từng thử nhiều phương thức khác nhau nhưng không làm sao hiểu được lý do bọn tà ma nhung nhúc giết hoài không hết, cứ như thể bọn chúng được trời sinh đất dưỡng, giống rêu xanh và cỏ dại mọc hoài bất tận giữa một vết nứt trên đá, một mảnh đất tàn, một khu nghĩa địa. Bất kỳ địa điểm vô chừng nào mà người thường tình cờ không để ý cũng có thể trở thành nơi tà ma sinh sôi.
Bởi vậy, có một quãng thời gian rất dài, mọi người phải sống trong sự nơm nớp lo sợ rất dị thường — rằng bất kỳ một người nào, từ người thân, hàng xóm, thậm chí đến những người xa lạ gặp gỡ trên phố cũng đều có khả năng bị tà ma khoét rỗng thân thể vào một hôm nào đấy và bị đồng hoá thành tà ma như chúng. Rồi đến một ngày nào đó, những người ấy sẽ xuống tay với họ.
Cảm giác nơi nơi đều là tà ma mà người ta vô phương phát hiện manh mối này tệ lậu vô cùng.
Nhưng đến một ngày kia, ở vùng đất hoang phía nam mọc lên một căn phủ trạch có tên “Tước Bất Lạc”. Sau đó, mỗi đợt sấm chớp đột ngột đánh rền xuống nhân gian khiến trăm loại trùng xao động, đám tà ma yêu vật tán loạn khắp nơi kia lại bò gần về phía “Tước Bất Lạc” đó trong vô thức mà chẳng hay chẳng biết.
Bởi đó là bản năng của tà ma — một khi tiếp cận kẻ mạnh hơn mình thì một là chúng thần phục, hai là giết chết đối phương.
Tà ma không màng tình cảm, không kẻ nào thích bị áp chế dù đó có là bản năng đi chăng nữa. Vì vậy thoạt đầu, phần lớn chúng nó đều từng thử ra tay giết Ô Hành Tuyết.
Bọn chúng kéo nhau đi từ đám này đến đám khác, rồi lần lượt từng đám bọn chúng chết dần dưới tay đối phương.
Sau một thời gian dài, những kẻ tự tìm đường chết đã vơi đi nhiều. Một số trong chúng đã biết điều hẳn ra, một đám khác bắt đầu thắc mắc: Tại sao bỗng dưng một ma đầu như vậy xuất hiện ở nhân gian? Rốt cuộc hắn đã giết bao nhiêu người, dưới tay đã chết bao nhiêu vong hồn để có thể tích tụ lượng tà ma khí nồng nặc đến vậy.
Bọn chúng nghĩ cỡ nào cũng không đoán ra được, bèn cho rằng người kia có biện pháp tu hành đặc biệt nào đó, ví dụ như… nhờ vị trí đặt căn phủ trạch của hắn.
Thế nên dần dà, một phần bắt nguồn từ bản năng và một phần do mang tà tâm, càng ngày càng có nhiều tà ma dời nơi tu hành xuống phía nam, ở vị trí không xa “Tước Bất Lạc” cho lắm.
Về sau nữa, nơi đó trở thành chỗ tà ma tề tựu.
Khi chúng tề tựu về cùng một chỗ thì lượng tà ma khí hiển nhiên sẽ vượt xa giới hạn của một người. Chính vì vậy, càng có nhiều tà ma ở xa hơn ngửi được mùi vị ấy rồi lại ồ ạt đổ về nơi đó vào những dịp sấm sét đánh rền.
Cứ thế năm này qua năm khác, gần như toàn bộ tà ma trên thế gian đều vây quanh nơi này. Còn tay ma đầu trùng tu và xây dựng “Tước Bất Lạc” đã dựng một kết giới bao lấy cả khu vực đó, đặt tên cho nó là “Chiếu Dạ thành”.
Cửa vào của Chiếu Dạ thành là Lạc Hoa Đài, bên ngoài Lạc Hoa Đài còn có cánh đồng Gia Minh. Mười hai dặm núi và cánh đồng hoang vu rộng lớn kia dường như đã tạo thành một tấm chắn tự nhiên.
Chắn lấy động ma ở bên trong, chắn lấy nhân gian ở bên ngoài.
***
Trong một khoảng thời gian rất dài, người ta mang nỗi sợ khôn nguôi với cái nơi “Chiếu Dạ thành” đột ngột xuất hiện như vậy. Họ cho rằng đó là chốn tà ma tề tựu nên chắc còn đáng sợ hơn dưới luyện ngục.
Hễ nhắc đến nơi đó, họ đều gọi nó là động ma. Hễ nhắc đến thành chủ Chiếu Dạ thành, họ đều gọi hắn là ma đầu.
Sự kinh tởm và nỗi sợ hãi vượt lên tất cả.
Bởi thế mà chưa từng có một ai đề cập đến, thậm chí không một ai để ý rằng, gần một trăm năm kể từ khi Chiếu Dạ thành xuất hiện ở nhân gian, dường như bọn họ đã không còn những ngày đêm sợ sệt bất an như xưa nữa.
Tà ma vẫn sẽ hoành hành nhân gian, nhưng chúng không còn xuất hiện từ thinh không ở khắp mọi nơi mà chẳng một dấu hiệu báo trước. Ít ra thì vào thời điểm hiện tại, ai cũng biết hang ổ của bọn chúng ở đâu.
Thêm nữa, các tiên môn cũng không còn lạc lối mò mẫm trong vô định. Bởi giờ đây, đám tà ma kia muốn ra khỏi thành để vào nhân gian bắt buộc phải đi qua một số cung đường nhất định.
Thành thử trong những năm đó, rất nhiều xung đột giữa tiên môn và tà ma đều nổ ra trên khu vực cánh đồng Gia Minh…
Cánh đồng hoang dã ấy thật lạ kỳ.
Năm xưa khi vẫn còn thần mộc, biết bao trận chiến giữa những quốc gia nhỏ vẫn thường xảy ra ở đây, khiến cả vùng hoang dã mịt mù khói bụi, thi thể nơi nơi. Khu vực này là một vùng đất chết, nhưng lại giúp bảo vệ an nguy cho mẫu quốc của rất nhiều người còn sống.
Sau này không còn thần mộc, Lạc Hoa Đài chìm trong biển lửa. Cánh đồng hoang này lại ghi dấu vết máu tràn trề. Nó vẫn là một vùng đất chết, song đã góp phần tiên đoán cho trăm năm kế tiếp không còn hoạ loạn từ lòng tham nối liền với thần mộc.
Và lúc này, cánh đồng hoang ấy vẫn lâm vào cảnh binh qua giữa tiên ma, vẫn là một vùng đất chết, song chưa hẳn không mang điềm may mắn.
Truyền thuyết kể rằng, thành chủ Chiếu Dạ thành Ô Hành Tuyết thường đứng trên Lạc Hoa Đài cằn cỗi, vọng về phía cánh đồng Gia Minh ở phương xa. Có người đoán hắn có mối quan hệ bí ẩn gì đó với khu vực này. Nhưng mỗi khi rời khỏi thành, hắn luôn chọn đi đường vòng chứ không bao giờ băng qua cánh đồng hoang vu ấy.
Rất nhiều người tò mò về nguyên do phía sau, người ta suy già đoán non đủ điều nhưng không một ai dám mở miệng hỏi thẳng.
Thật ra nếu có người dám hỏi, Ô Hành Tuyết cũng sẽ không trả lời.
Chàng không tiết lộ cho bất kỳ kẻ nào một chuyện — ở phía bắc cánh đồng Gia Minh có một bệ thờ được giấu kín, trên bệ thờ ấy đặt tượng thần của một người mà hiếm có bá tánh nhân gian nào thờ phụng. Trên tượng khắc một cái tên, tên gọi Tiêu Phục Huyên.
Sau lưng tượng thần có một dấu ấn, khi xưa đương lúc vui đùa Tiêu Phục Huyên đã tự mình khắc lên thân tượng, bảo rằng để dễ dàng “bắt” được người nào đó cứ hay ngao du khắp nhân gian.
Dấu ấn này khác với ấn thờ thông thường ở chỗ nó có liên hệ mật thiết với bản tôn hơn. Nhờ vậy, nó có thể thay thế đôi mắt Tiêu Phục Huyên. Những gì tượng thần nhìn thấy cũng là những gì Tiêu Phục Huyên nhìn thấy.
Và chàng không muốn bước qua bên dưới đôi mắt ấy, chàng không muốn lúc ngước đầu lên sẽ trông thấy đôi mắt buông hờ của bức tượng thần kia.
Đó là ánh mắt vẫn luôn hiện diện trong mỗi thời điểm thân mật nhất, chứ không phải giữa chốn đồng hoang nhân gian, nhìn tà ma khí quấn rịt thân chàng và đôi tay bám đầy sát nghiệt.
Nhưng đồng thời, chàng cũng hiểu rất rõ rằng… sớm muộn gì cũng có một ngày người kia nhìn thấy.
Thiên Túc thượng tiên chuyên diệt trừ tà ma. Sớm muộn gì cũng có một ngày, Tiêu Phục Huyên sẽ nhận thiên chiếu xuống nhân gian, và họ sẽ gặp nhau giữa khi giao đấu.
Có đôi lúc chàng bất chợt bần thần, khó nén lòng nghĩ về khung cảnh của một ngày như thế.
Đó sẽ rơi vào ngày tháng năm nào? Ở địa điểm nào dưới nhân gian? Liệu đó là Chiếu Dạ thành, hay sẽ là cánh đồng Gia Minh đi sao cũng không tránh khỏi…
Chàng đã nghĩ đến rất nhiều chỗ, khung cảnh trong tất cả những chỗ ấy đều mờ ảo, đi kèm sương mù lạnh lẽo không tan biến và những đêm dài tĩnh mịch.
Chàng thậm chí còn nghĩ đến tiếng trường kiếm xé gió vút sang. Nhưng đến cùng, chàng mới vỡ lẽ, nó không giống như bất cứ khung cảnh nào trong tưởng tượng.
***
Ngày ấy, ở nhân gian ngay độ tháng ba xuân sang, hạnh mai nở rộ kết chùm như hoa đăng ở phía nam Mộng Đô.
Ô Hành Tuyết vẫn một mực né khỏi cánh đồng Gia Minh, chàng chọn đi băng qua toà thành kia. Dù không định ở lại quá lâu, nhưng chàng lại vừa khéo đụng trúng đèn bảo vệ của các con cháu tiên môn.
Chàng không có ý quấy rối ngày lễ hội, bèn chọn lùi bước và phóng mình lên một tầng lầu cao.
Vào những dịp lễ hội hiếm gặp này, các toà thành tiên môn đều dỡ bỏ cấm chế đi lại ban tối để khu chợ hoạt động xuyên đêm. Bởi thế, hai bên vách phố tấp nập những mặt tiền quán xá giăng đầy đèn lồ ng tỏ sắc cam vàng.
Có điều, không phải mặt tiền quán xá nào cũng đông vui sầm uất, như căn nhà Ô Hành Tuyết đang tạm lánh mặt đây chính là một ngoại lệ ít ỏi trong số ấy. Trên lầu hai đã tắt đèn từ sớm, chỉ còn sáng đèn nửa phía trước của tầng một mà thôi.
Chàng đứng ngoài hành lang nhô ra phía ngoài trên lầu hai, trong bóng đêm mịt mờ không ánh sáng, tựa người vào trụ gỗ lan can sơn đỏ đặng buông mắt trông về con phố bên dưới.
Con phố này không hẳn là dài, dây đèn treo từ đầu đường đến chỗ này cũng chỉ tầm một dặm là cùng chứ chớ hề uốn quanh tít tắp đến chân trời. Thế mà khi nhìn vào những ánh đèn dầu, lắng nghe tiếng ồn ã của bá tánh, nhìn dòng người tấp nập xôn xao, chàng vẫn không khỏi ngây ngẩn.
Bất giác, chàng không rõ hôm nay là ngày nào nữa.
Dường như chàng đã chìm vào giấc mộng dưới ánh sáng của ngọn đèn từ xa xưa nào ấy…
Thế mà vẫn có những kẻ không biết lựa thời, cứ phải nhè ngay dịp này để tới quấy rối người khác.
Khi cảm nhận được bùa giấy lung lay, Ô Hành Tuyết cụp mắt xuống, gương mặt tối sầm. Chàng đã quá quen thuộc với thứ động tĩnh này, dù hiện tại rất hiếm có tà ma nào tự mò đến trước mặt chàng tìm chết, nhưng đôi khi vẫn có những kẻ cứ cảm thấy bản thân mình có thể lợi dụng sơ hở đây đó…
Ví như nhân cơ hội Ô Hành Tuyết không có ở Tước Bất Lạc, ví như nhân lúc không có một ai bên cạnh chàng, ví như nghe đồn chàng từng bị các tiên môn dưới nhân gian truy lùng gắt gao mấy phen liền nên cơ thể thụ thương. Mà quan trọng hơn cả là, sau khi lũ tà ma ấy lẻn mò vào thành lại nghe được một cái tên đã lâu chưa thấy từ miệng các đệ tử tiên môn…
Nghe đâu vị kia trên Tiên Đô xuống phàm.
Thiên Túc thượng tiên không hạ phàm mà không có lý do, nếu y đã đến ắt hẳn sẽ có ma đầu dính nạn.
Mà hiện tại, còn có ma đầu nào hùng mạnh hơn thành chủ Chiếu Dạ thành?
Bởi thế, bọn chúng muốn giữ một cự ly không xa không gần để hóng xem có thể nhân cơ hội kiếm chác được chút nào hay không.
Những lúc bình thường, hễ bọn chúng không động thủ trước thì Ô Hành Tuyết cũng rất lười chủ động ra tay bắt chúng mà để bọn chúng tuỳ ý bám đuôi. Ngặt nỗi hôm nay chàng có hơi khác thường.
Có lẽ vì không muốn bị người quấy rầy giữa lúc thưởng ngoạn lễ hội đèn lồ ng đầy hoài cảm này, hoặc có lẽ do số mệnh đã định sẵn sao đấy… mà chàng cảm thấy bồn chồn không yên, bực dọc trong lòng nên muốn đào đám người chướng mắt kia ra.
Sau đó Ô Hành Tuyết đã không còn nhớ rõ rốt cuộc có bao nhiêu tà ma đã trà trộn vào lễ hội đèn lồ ng hôm ấy. Năm đứa? Hay là bảy đứa?
Đã quên rồi.
Ô Hành Tuyết đã quên rất nhiều những sự vụ tủn mủn ngày hôm đó, chỉ khắc ghi thời điểm mình ra tay giết sạch lũ tà ma kia, và khung cảnh sương giá lạnh căm bọc kín những cái xác khô quắc khi chúng ngã xuống nền đất tối om không ánh đèn bên trên tầng lầu toà nhà.
Chàng cúi nhìn chút ánh sáng le lói chót cùng tắt ngúm trong mắt bọn chúng, đoạn đứng dậy, máu vẫn tí tách nhiễu giọt từ đầu ngón tay.
Cứ thế, chàng lẳng lặng đứng trong bóng đêm. Chẳng biết qua bao lâu sau, chàng chợt nghe tiếng chiêng trống vang lên bên ngoài.
Theo tập tục dân gian, tiếng chiêng trống vang lên báo hiệu giờ lành đã điểm, và những người cầm đèn trong tay sẽ đồng loạt thả đèn. Bởi thế khi đó, hàng chuỗi dài ngọn đèn lồ ng sẽ nổi lên cùng một lúc, lững thững bay lên những tầng mây tựa như muôn đốm sao lấp lánh.
Nghe thấy tiếng chiêng trống, chàng mới sực giật mình hoàn hồn, chốc lát sau cất bước ra ngoài lan can.
Khoảnh khắc đó, giữa hàng người ồn ã tấp nập trên phố, có một bóng dáng rất cao quấn gió mạnh quanh người, tay mang trường kiếm, bước đến từ một góc đường.
Người này mang gương mặt lạnh lùng trời sinh và ánh mắt tuyệt nhiên vô tình, hiện đang băng ngang con phố. Đến khi nghe thấy tiếng chiêng trống rùm beng, y chợt bừng tỉnh và dừng bước chân.
Đó chính là khoảnh khắc muôn ánh đèn trải đầy con phố được thả bay cao.
Thế nên, Ô Hành Tuyết đứng cụp mắt trên lầu cao, và người nọ ngước mắt từ bên kia con phố.
Qua đấy, một trăm năm nhân thế chậm rãi trôi theo ánh đèn loá nhoè tầm mắt.
Đám đông trên phố vẫn nối bước theo ánh đèn trong niềm hân hoan. Âm thanh vang ra từ ấy chắc phải rộn rã rình rang, song Ô Hành Tuyết chỉ thấy mịt mùng như bị phủ sau tấm vải nhung dày, khiến chàng chẳng nghe rõ được điều gì.
Ánh đèn rực rỡ sáng ngời, lung linh đến loá mắt. Và giữa vầng sáng ấy, chàng nhìn thấy Tiêu Phục Huyên.
Chàng từng thấy bốn mùa trôi qua chóng vánh, chớp mắt đã từ đông sang xuân, rồi từ xuân sang đông. Ngọn đèn thanh minh trước cửa vào Chiếu Dạ thành chuyển dời sau mỗi mười năm, đến giờ phút này đã xoay chuyển mười lần, bất quá cũng chỉ là bóng câu qua cửa sổ.
Mãi đến khi bước vào bóng đêm mịt mờ sương khói, đối diện với ánh mắt của Tiêu Phục Huyên, chàng mới bất giác cảm thấy, một trăm năm sao dài quá đỗi.
Một trăm năm ấy quá dài, khiến khoảnh khắc đôi mắt chạm nhau giữa hai người họ trở nên thật ngắn ngủi.
Ánh đèn khu chợ vừa khéo choáng ngay trước toà nhà làm người ta nhìn sao cũng không rõ. Đến khi ánh đèn dầu le lói len vào bóng mây, bên kia góc phố đã vắng bóng người.
Cứ như thể… ánh mắt đối phương chỉ tình cờ lướt qua, thoạt nán lại trong giây lát. Xong khi thả đèn kết thúc, bá tánh lại bắt đầu di chuyển, người kia cũng thu tầm mắt về và ngoảnh người hoà mình vào đám đông.
Thật sự không khác gì hai người xa lạ.
Cho dẫu Ô Hành Tuyết đã nghĩ về khoảnh khắc này biết bao bận, đã chuẩn bị tinh thần suốt trăm năm, thật chí đã từng nghĩ việc đến nước này âu cũng tốt chứ chưa hẳn là chuyện xấu. Ấy thế mà khi nó thật sự xảy ra, con tim chàng vẫn nhói đau âm ỉ khó lòng kiềm nén, tựa như bị đâm ngoáy bởi một con dao cùn rỉ sét.
Bên dưới toà lầu, một đệ tử nhà nào đó thổi tiếng còi canh gác du dương, hàng trăm ngọn đèn đuổi linh khiến tà ma e dè được thắp sáng và treo hai bên chợ để bảo vệ bình an cho đêm chợ hôm này.
Bá tánh tự do du ngoạn bên dưới ánh đèn, mỗi mình Ô Hành Tuyết lấy tay che ngang mắt.
Chàng ngửi được mùi máu còn vương trên tay, chân lùi về sau một bước, nép mình vào bóng tối trên toà lầu cao.
Đứng ở vị trí này, đèn đuổi linh không rọi vào người chàng được nữa. Chàng không phải nhìn thấy ánh sáng khiến tà ma khó chịu, song vẫn không buông cánh tay đang chắn ngang mắt mình.
Chàng vẫn khép chặt hai mắt, tròng mắt nóng hổi.
Sau đó, Ô Hành Tuyết chẳng biết mình đã đứng ở nơi tối tăm không người ấy bao lâu…
Có lẽ cũng không bao lâu.
Vì khi cái bỏng rát trong mắt còn chưa tan biến, chàng nghe thấy âm thanh rất khẽ bất chợt vang lên phía sau mình. Âm thanh ấy khiến chàng sững người, cứng đờ tại chỗ.
Đó là tiếng trường kiếm nhẹ nhàng va vào vỏ kiếm, vang lên cách chàng chưa đến nửa bước chân phía sau lưng.
Thoáng chốc, cả căn lầu chìm vào tĩnh lặng.
Một lúc lâu sau, người đứng sau cất giọng trầm thấp, hỏi, “Ngươi là… Ô Hành Tuyết?”
Ô Hành Tuyết hé mở đôi mắt bên dưới mu bàn tay, hai mắt nóng bừng đỏ hửng.
Lời tác giả:
Ngủ ngon QAQ~
Hồi ức sát còn thêm chút nữa, nếu bạn nào không thích xem thì chờ hết rồi đọc một lượt luôn nha.
Cá:
Em cũng muốn qua nhanh đoạn ngược mà nhằm ngay lúc này lại quần quật với công việc ở ngoài đời nên chậm trễ quá +__+