Hôm sau, Kim Tịnh Ngọc theo những lời đã thỏa thuận với Tư Dạ Hành Vũ từ đêm hôm qua, đi đến Quốc Định Quán để từ biệt với các đồ nhi, đợi khi thượng triều xong, sẽ cùng hắn đến Dưỡng Tâm điện tâu với hoàng thượng chuyện cáo quan về ở ẩn.
Đang lúc chuyện trò hăng say trong Quốc Định Quán, đột nhiên Thái công công từ đâu dắt theo một đám thái giám hiên ngang bước vào bên trong, hét lớn:
“Người đâu, lục xét hết nơi này và cả tất cả những người ở đây cho ta! Dù có lật tung cả Quốc Định Quán, cũng phải tìm cho ra báu vật Kỳ Lân Ngọc Phỉ của hoàng thượng!”
“Rõ!”
Những tên thái giám theo sau răm rắp nghe lời, sau đó lập tức chia nhau ra tiến hành lục xét mọi ngóc ngách, đến cơ thể của các tông thất và các phu tử cũng quyết không tha.
Tuy nhiên cả Quốc Định Quán này chỉ có mỗi Kim Tịnh Ngọc là nữ nhân, không tiện dò xét.
Nàng cũng là người đa nghe nhất, nên đã không chịu ngồi yên mà tiến đến dò hỏi cho ra lẽ:
“Thái công công, Kỳ Lân Ngọc Phỉ mà ngài nói là gì? Hơn nữa thứ báu vật đó bị mất, tại sao lại chỉ đến chỗ chúng ta để tìm?”
“A, Kim phu tử đã hiểu lầm rồi! Kỳ Lân Ngọc Phỉ, vật cũng như tên, là một con kỳ lân bằng ngọc xanh được điêu khắc tinh tế, hai mắt của nó còn là hai viên mã não đẹp nhất trên đời, sáng không gì bằng.
Những vật quý hiếm như vậy vẫn thường được đặt ở Dưỡng Tâm điện để trang trí và bảo quản, nhưng đêm qua cấm vệ đã nhìn một thấy bóng người lướt qua hành cung chớp nhoáng, đến sáng sớm hôm nay khi nhìn lại thì Kỳ Lân Ngọc Phỉ không rõ vì sao mà đã biến mất không chút dấu vết… Hoàng thượng nghi ngờ là có người trong cung đã lấy, nên mới cho dò xét từng nơi một, Quốc Định Quán này đương nhiên cũng không ngoại lệ.”
Kim Tịnh Ngọc vừa nghe kể vừa gật gật đầu, sau đó lại trở về chỗ cũ, yên vị ngồi xuống, nói:
“Những phu tử và cả đồ nhi chỗ chúng ta đều về nhà lúc trời sụp tối, nên việc lấy cắp báu vật của hoàng thượng là vô cùng bất khả thi.
Nếu Thái công công dò xét nơi đây không có, thì có thể dẫn tùy tùng đến nơi khác điều tra.”
Lời nàng nói vô cùng hợp lý, khiến Thái công công trong chốc lát chưa nghĩ ra được cách ứng phó.
Ông ta gục gục đầu, đảo mắt qua lại một lúc, khi nghĩ ra kế sách thì tâm trạng cũng hớn hở hẳn lên:
“Lời Kim phu tử nói, đến ta cũng thấy có lí vô cùng.
Có điều ta và hoàng thượng đều không thần thông quản đại đến mức đoán được là người trong Quốc Định Quán này có thông đồng với người trong cung để đem bảo vật đưa ra ngoài hay không.
Vậy nên mạn phép mời các vụ phu tử và tông thất hãy cùng ở lại nơi này, chờ đến khi tìm được kẻ cắp thật sự, thì mới có thể thả mọi người ra.”
Nghe lệnh đó xong, trên dưới Quốc Định Quán đều hoang mang tột độ, trong đó Kim Tịnh Ngọc là phản ứng mạnh mẽ nhất, vì nếu bị giam lỏng ở đây, thì chuyện của nàng và Tư Dạ Hành Vũ phải tính sao?
“Thái công công, xin ngài xem xét lại! Tất cả bọn ta đều có chuyện riêng cần phải làm, không thể bị giam mà không biết khi nào mới được thả.”
“Kim phu tử và chư vị cứ việc yên tâm.
Hoàng cung rộng lớn, nhưng đã phong tỏa hết cả rồi, tin chắc sẽ sớm tìm được báu vật của hoàng thượng, sớm trả tự do lại cho mọi người.”
Kim Tịnh Ngọc có chút không bằng lòng, nhưng cũng không biết làm gì khác, đành ngoan ngoãn ngồi xuống chờ đợi.
Thêm nữa là các đồ nhi còn nhỏ tuổi cũng vô cùng yêu thích nàng, cứ quấn quýt không thôi khiến nàng cũng có thêm chút động lực ở lại.
Thái công công sau khi thấy Kim Tịnh Ngọc đã chịu ở lại Quốc Định Quán, liền đắc ý rời đi.
Vừa ra đến cổng lớn, ông ta liền dặn dò cấm vệ và tất cả những người đi theo mình phong tỏa người lẫn thông tin, không được để bất cứ ai hay tin tức nào được lọt vào bên trong.
Dù cho có trời long đất lở, người bên trong cũng không được biết gì.
Hoàn thành nhiệm vụ, Thái công liền nở nụ cười gian ác, rồi hí hửng chạy đến chính điện tìm Tư Dạ Hành Lâm để báo cáo tình hình.
Ở chính điện, Tư Dạ Hành Lâm đang ngồi chễm chệ trên ngai vàng, vẫn còn giả vờ xử lí chính vụ như bình thường, thì Thái công công đột nhiên đi từ phía sau lên thì thầm vào tai điều gì đó.
Sau khi nghe xong, sắc mặt của hắn liền thay đổi hoàn toàn, khóe môi hắn nhếch lên hài lòng, sau đó thuận tay đóng tờ tấu sớ đang đọc dở, đưa cho Thái công công cất sang nơi khác, lớn giọng:
“Hôm nay, sẵn có đầy đủ quần thần ở đây, trẫm muốn công khai xử lý một tên loạn thần tặc tử, nuôi binh phản loạn, rối loạn triều cương mà Doãn tướng quân vừa bắt được vào tối hôm qua.”
Nghe câu nói này xong, triều thần trên dưới đều hoang mang tột độ, xì xầm bàn tán, đoán già đoán non.
Riêng Tư Dạ Hành Vũ, hắn đưa mắt nhìn vào chỗ trống mà thừa tướng mọi khi hay đứng, trong lòng chợt nổi lên chút bất an.
“Người đâu, áp giải phạm nhân vào!”
Doãn Thành Thái lớn giọng hô to, cả triều đường cũng vì vậy mà không còn xôn xao nữa.
Thay vào đó, chẳng cần ai bảo với ai, mọi người đều đồng loạt quay đầu nhìn về phía cửa lớn, muốn xem xem rốt cuộc tên nào lại dám cả gan nuôi binh làm phản.
Khi nhìn thấy người đang từng bước bị áp giải vào là Kim Quang, ai nấy cũng đều sửng sốt.
Quan tướng triều thần trên dưới trăm người, đương nhiên không tránh khỏi những kẻ ganh ghét và đố kị với thừa tướng, nhưng ngay cả bọn họ cũng không thể tin, người cương trực vì nước vì dân như ông lại có thể làm ra chuyện kinh thiên động địa như vậy.
Không cần đợi ai lên tiếng, Kim Quang khi đi đến gần tọa vị của Tư Dạ Hành Lâm, tự động quỳ xuống hành lễ.
Dù thân xác ông đã tàn tạ đến mức khó tin, nhưng giọng nói vẫn cương định như thường:
“Lão thần, tham kiến hoàng thượng! Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”
“Hừ, ông đã làm ra chuyện trời đất không dung, còn dám ở trước mặt thánh thượng giả vờ tỏ ra vô tội? Hai chữ lão thần này, đúng là quá sức sỉ nhục đối với những người làm thần tử bọn ta!”
Doãn Thành Thái vội lên tiếng sỉ vả Kim Quang, khiến Tư Dạ Hành Vũ vừa nhìn thấy đã biết ngay là con người này đang có tâm cơ.
Tuy nhiên Kim Quang thì không thèm để tâm một chút nào đến lời nói của ông ta, chỉ tập trung kể lại hết toàn bộ câu chuyện, đồng thời giải bày nỗi lòng cho hoàng thượng biết, khiến thể diện của Doãn Thành Thái bay đều bay đi mất hút.
Sau khi nghe Kim Quang kể xong, Tư Dạ Hành Lâm gật gật đầu, nhưng rõ ràng là không hề có chút đồng thuận nào:
“Thừa tướng, khanh bịa chuyện cũng thật là giỏi đến đáng gờm! Nhưng sự thật thế nào, Doãn tướng quân đã cho trẫm biết hết từ lâu rồi.
Nếu khanh vẫn còn chưa chịu khuất phục, vậy đành nhờ Doãn tướng quân đưa nhân chứng lên đây vậy.”
“Mau áp giải nhân chứng lên đây!”
Doãn Thành Thái lớn tiếng gọi vọng ra ngoài, binh lính của ông ta liền lôi vào hai tên tội nhân mặt mày lạ lẫm, chưa có ai từng gặp qua.
Hai tên đó bị ép quỳ xuống bên cạnh Kim Quang, vội xưng tên họ:
“Bẩm hoàng thượng, thần tên họ là A Sính, còn đây là ca ca của thần, tên là A Sử.”
“Tốt! Nghe trẫm hỏi đây, có phải hai ngươi là binh sĩ được đào tạo trong doanh trại riêng của thừa tướng gia?”
Người tên A Sử vốn đang rất bình tĩnh, đột nhiên đứng thẳng lên, mắt trừng to quát thẳng vào mặt Tư Dạ Hành Lâm:
“Không, không bao giờ ta hé răng nói nữa lời! Ta thà chết cũng không cho các người biết bất cứ thông tin gì đâu!”
A Sử nói xong, mắt liếc ngang nhằm vào cây cột lớn ở ngay chính điện, dù bị xiềng xích trói buộc nhưng vẫn cố chạy thật nhanh đến đập đầu vào đó.
Mọi người xung quanh chỉ nghe được một tiếng va đập thật lớn, nhìn lại đã thấy cả cơ thể A Sử như mềm nhũn ra, từ từ trượt xuống sàn, máu tươi bị kéo thành một vệt dài trên cột, còn bản thân hắn, chết không nhắm mắt.
Màn kịch hoàn hảo còn chưa dừng lại ở đó.
A Sính sau khi thấy ca ca của mình tự sát, liền khóc bù lu bù loa, vừa dập đầu vừa nói:
“Hoàng thượng! Hoàng thượng, xin hãy làm chủ cho thần và ca ca! Chúng thần vốn quê ở Hồ Bắc, hai năm trước theo lệnh triều đình tòng quân nhập ngũ, nhưng không ngờ nơi chúng thần đến không phải quân doanh triều đình, mà là doanh trại bí mật của thừa tướng gia.
Ngài ấy còn hâm dọa chúng thần, một khi đã phóng lao thì phải theo lao, cút cung tận tụy, xem ngày ấy là bậc bề trên, một lòng trung hiếu, nếu không cha mẹ già ở quê của chúng thần sẽ… vậy nên…”
“Tên kia! Ngươi đang ăn nói hồ đồ gì vậy? Ta đã gây thù chuốc oán gì với ngươi, để rồi ngươi ngang nhiên đổ tội lên đầu ta?”
“Thừa tướng, đến tận nước này rồi, ngài còn định chối cãi gì nữa? Rõ ràng là ngày đã ngầm ý định nuôi binh tạo phản từ lâu, doanh trại cũng đã sắp duyệt binh lần cuối, chuẩn bị tấn công vào hoàng thành.
Có phải vì mất đi cơ hội giành ngôi vị, nên ngài mới điên loạn đến mức không nhận ra thần không?”
Kim Quang giận đến đỏ tai tím mặt, ông cố lết người lên muốn đối chất với tên A Sính đó, nhưng loại xích và gông cổ của Doãn Thành Thái sắp xếp cho ông thật sự rất nặng, cộng thêm hai tên lính luôn cố kìm Kim Quang lại, khiến ông một chút khả năng kháng cự cũng không có.
Tư Dạ Hành Lâm ngồi trên ngai vị, nhìn thấy Kim Quang anh dũng một thời lại bất lực bởi mấy thứ xiềng xích cỏn con, vui không tả nổi:
“Thừa tướng gia, nhân chứng có đủ, khanh còn gì để chối? Hơn nữa ở doanh trại ngoại thành đó còn treo cờ có chữ “Kim” màu vàng chói.
Khắp Sở quốc này, tìm họ Kim chẳng khác gì vạch lá tìm sâu, nếu không phải gia tộc của khanh, thì còn là đâu nữa?”
Tư Dạ Hành vũ thấy tình thế không ổn, vội bước ra trước mặt Tư Dạ Hành Lâm, quỳ xuống hành lễ:
“Hoàng thượng xin hãy xem xét lại! Thừa tướng gia cả đời vì dân vì nước, cút cung tận tụy, giữ vững triều cương.
Chuyện ngài ấy nuôi binh tạo phản, không phải là quá vô lí sao?”
“Nhị đệ, ngày thường không phải đệ rất giỏi nhìn người sao? Tại sao đến thừa tướng gia thì lại trở nên mù quáng, không rõ thị phi như vậy? Đệ thân là vương gia duy nhất của triều ta, đừng vì chuyện ông ta là nhạc phụ của đệ, thì liền nhắm mắt làm ngơ, lên tiếng xin tội.
Nếu không, ngay cả đệ cũng…”
Nghe Tư Dạ Hành Lâm hăm doạ, Kim Quang hoảng hồn xin tội ngược lại cho Hành Vũ.
Ông vốn đã biết mình bị ai hãm hại, nhưng tốt nhất trong tình thế chưa rửa oan được cho chính mình, thì không nên lôi người khác vào chết chung:
“Hoàng thượng, xin đừng trách vương gia! Chẳng qua là ngài ấy sớm đã nhìn rõ đúng sai, nên mới xin tội cho lão thần.”
“Nhị đệ sớm đã nhìn rõ đúng sai, còn trẫm thì không sao? Thôi được rồi, đừng nói nhiều nữa, án xử này nên kết thúc tại đây.”
“Hoàng thượng, ý người là sao?”
Tư Dạ Hành Lâm đứng dậy, nhìn sơ một lượt từ trên xuống dưới triều đường, dõng dạc tuyên bố:
“Thừa tướng Kim Quang, nuôi binh tạo phản, hòng chiếm ngôi vua, theo luật nhà Sở ta, tước đoạt chức vị, trở thành tội nhân, tru di tam tộc!”
Bốn chữ “tru di tam tộc” như một tiếng sét lớn đánh ngang qua tai Kim Quang và cả Tư Dạ Hành Vũ.
Cả người ông như không còn sức lực, quỵ xuống ngay giữa chính điện.
Hành Vũ vội đỡ lấy ông, định lên tiếng giải thích nhưng đối phương đã ra hiệu từ chối:
“Nếu nhị đệ còn tiếp tục ở đây xin tội cho kẻ muốn chiếm đoạt ngôi vua, thì đừng trách trẫm không niệm tình huynh đệ! Doãn tướng quân, mau đem tội nhân Kim Quang giam vào Thận hình ti, cho quân đến vây bắt cả tộc Kim thị.
Ngày Rằm tháng sau, trẫm sẽ đích thân xử tử!”
“Thần… tuân chỉ!”
Tư Dạ Hành Lâm gật đầu hài lòng, cho lệnh bãi triều rồi sau đó liền phủi áo rời đi.
Bọn binh lính của Doãn Thành Thái cũng gấp rút tách Kim Quang ra khỏi Hành Vũ, lôi ông cùng A Sính rời khỏi đó.
Các đại thần trong triều cũng lần lượt đi hết, chỉ còn một mình Tư Dạ Hành Vũ trơ trọi giữa chính điện rộng lớn.
Hắn không tin vào những gì mình vừa nghe, nhưng có muốn không tin đi chăng nữa, thì cũng chẳng được tích sự gì.
Hắn cố đứng lên, nhưng cả người cứ như đã mất đi hết sức lực.
Một ý nghĩ chợt vụt qua trong tâm trí, Hành Vũ cố gồng mình chạy đi thật nhanh, trên trán đổ mồ hôi lấm tấm:
“Tiểu Ngọc! Tiểu Ngọc vẫn còn ở trong cung!”.