Đọc Thầm

Quyển 2 - Chương 4: Humbert Humbert 4


Lang Kiều còn chưa om sòm xong, đang định thừa thắng xông lên, cùng một nhóm đồng nghiệp tiếp tục bao vây tiêu diệt Lạc Văn Chu, nào ngờ mới thò đầu ra, liền vừa vặn gặp ánh mắt trong bức tranh rơi dưới đất, bị dọa men say cũng bay hết ra theo lỗ chân lông.

Trong hệ thống công an có nhân viên kỹ thuật chuyên vẽ tranh mô phỏng, trong đó không thiếu cao thủ, đem so sánh thì kỹ thuật vẽ của bức chân dung này thuộc về trình độ của người mới học. Nhưng rất kỳ lạ, thần vận người trong tranh sống động bất ngờ, khuôn mặt như từng được phác họa vô số lần trong lòng người vẽ, không nhịn nổi nữa mới mượn ngòi bút kém cỏi để vẽ ra giấy.

Lang Kiều: “Đây là cái gì?”

Đào Nhiên bị Lạc Văn Chu đá ngã đã hơi tỉnh táo lại, ý thức được mình đã lỡ lời, anh vịn sofa đứng dậy ra ngoài rửa mặt, sau đó quay về dọn dẹp đống đồ dưới đất với Lạc Văn Chu: “Là chuyện ở Liên Hoa Sơn nhỉ? Ông già nhắc cả đời.”

“Liên Hoa Sơn” không phải một ngọn núi, mà là địa danh ở ngoại ô phía bắc Yến Thành, ngày xưa thuộc về thị trấn bên dưới Yến Thành, mười mấy năm trước đã bị nhập vào Yến Thành, trở thành một khu khai phá.

Trong trang kia của quyển sổ, trừ bức tranh sống động ấy ra thì còn kẹp vài tấm ảnh cũ ố vàng, dùng băng keo trong dán lên giấy, thời gian quá lâu rồi nên vừa đụng vào đã rơi.

Chúng có một số là ảnh sinh hoạt rất mờ, còn có tác phẩm của tiệm chụp ảnh đặc sắc thời bấy giờ – đều là phông nền cối xay gió Hà Lan, chiếu sáng khoa trương, nụ cười của thiếu nữ trên ảnh hơi gượng, giống như tạo dáng phơi nắng thời gian quá dài.

Tổng cộng sáu tấm ảnh.

Mấy thứ như là ảnh cũ, nói đến rất kỳ lạ. Tất cả ảnh để vài chục năm đều bạc màu, ố vàng như nhau, nếu người trên ảnh hạnh phúc mỹ mãn, thì dấu tích cũ ố vàng sẽ có vẻ dư vị dài lâu, năm tháng bình an, nhưng nếu người trên ảnh về sau gặp bất trắc, người ta nhớ lại giọng nói dáng hình người này lúc ấy, luôn có thể nhìn thấy một chút âm u quỷ dị, giống như những oán phẫn và không cam của chủ nhân đều bám trên hình ảnh trạng thái tĩnh, số mệnh đang tỏ rõ điều gì.

“Là Dương lão à?” Lang Kiều hỏi, “Sao ông ấy lại quản việc của khu khai phá?”

“Thời bấy giờ Cục công an có một chính sách, ai chưa đầy ba mươi lăm tuổi đều phải xuống cơ sở rèn luyện – đến đồn công an hoặc đến mấy huyện lúc ấy, nhóm sư phụ anh đến Liên Hoa Sơn hơn nửa năm.” Lạc Văn Chu cẩn thận nhón rìa tấm ảnh kẹp lại vào sổ, “Mới đi chưa bao lâu, thì gặp vụ án đó – có thể em cũng chưa nghe nói đâu, lúc đó cả anh còn chưa đến tuổi đi học mà.”

“Ban đầu có một người đàn ông đến báo án, nói con mình mất tích.” Đào Nhiên giở quyển sổ, ngoại trừ ảnh và tranh, hầu hết nội dung trên sổ đều là viết tay, nét chữ của ông cảnh sát già tương đối đẹp, thanh tú lại mạnh mẽ, có hình có thể, trên tờ trước tấm ảnh viết hai chữ “Quách Hằng”, dưới cái tên gạch đậm ba đường, “Đúng, người báo án chính là Quách Hằng này, mất đứa con gái mười một tuổi, nhũ danh là ‘Phỉ Phỉ’.”

Lạc Văn Chu nghe đến đó, bàn tay đặt trên một quyển tài liệu giảng dạy dày cộp khựng lại, bực bội ngẩng đầu nhìn Đào Nhiên: “Ông uống say khướt như thế mà còn nhớ cô bé đó tên gì?”

Đào Nhiên cúi đầu tránh ánh mắt anh ta: “Nghe ông già nhắc suốt bao nhiêu năm, đầu đuôi ngọn ngành tôi có thể đọc thuộc lòng.”

Thường Ninh bình thường công việc bận rộn, thời gian xem ti vi cũng ít, khó được nghe người của đội hình sự kể chuyện từ khoảng cách gần, không khỏi tò mò gặng hỏi: “Sau đó thì sao?”

“Khi đó cha mẹ nuôi con hầu hết không chú ý như bây giờ, mười một mười hai tuổi đã là choai choai rồi, bình thường đến trường hoặc sang nhà bạn chơi, đều chỉ nói một tiếng với phụ huynh rồi đi, người lớn cũng không đi quanh chúng từ sáng đến tối.”

“Nhưng mà cô bé Quách Phỉ này thuộc về loại cực kỳ ngoan ngoãn nề nếp, đến trường về nhà đều có giờ cố định, về muộn năm phút cũng đưa ra được lý do chính đáng, học tập chưa bao giờ cần gia đình nhọc lòng, hôm mất tích cũng không có gì đặc biệt. Bạn học nói, ngày đó sau khi tan học Quách Phỉ về nhà đúng giờ chứ không nán lại trường, đường từ trường về nhà khoảng mười lăm phút, cô bé mất tích chính trong khoảng mười lăm phút này. Sư phụ tôi và mọi người đi tới đi lui mấy chục lần con đường thường ngày cô bé đi, hồi đó trên đường chưa có nhiều camera như bây giờ, nhưng đường cô bé về nhà không có chỗ nào đặc biệt ‘khuất’ cả, lúc ấy đang là mùa hè, chạng vạng cũng không tối lắm, rất nhiều người qua lại, theo lý thuyết, một cô bé lớn như thế bị người ta dẫn đi trên đường, cho dù hơi có một chút khác lạ, cũng không thể hoàn toàn không ai chú ý tới.”

“Thế nhưng, đi hỏi cả một vòng lớn, mà không thu hoạch được gì. Họ lục tung khu vực gần trường, mà cả một sợi tóc cũng chẳng tìm ra – không phải Sherlock Holmes có một câu nói nổi tiếng sao, ‘Loại trừ tất cả những điều không thể, điều còn lại dẫu khó tin hơn thì cũng là sự thật’, cho nên lúc ấy có người nói, hoặc là người quen gây án, hoặc là cô bé tự bỏ nhà đi.”

“Theo giả thuyết người quen gây án, cảnh sát điều tra hết lượt, giáo viên nhân viên của trường, bạn bè người thân nhà họ Quách, thậm chí cửa hàng văn phòng phẩm, siêu thị mini cô bé thường đi… Tổng cộng triệu đến hơn trăm người, nhưng đều chẳng có kết quả gì.”

Nói đến đây Đào Nhiên dừng một thoáng: “Đương khi cuộc điều tra rơi vào bế tắc, Quách Hằng cha cô bé đột nhiên nhận được một cuộc điện thoại, bắt máy không ai nói gì, chỉ nghe thấy có tiếng một bé gái kêu gào khàn cả giọng, mẹ cô bé vừa nghe liền ngất đi, cảnh sát lập tức dựa vào số điện thoại tìm được vị trí – là một buồng điện thoại rất hẻo lánh.”

Lang Kiều lấy làm lạ hỏi: “Không có camera ạ?”

“Không có, buồng điện thoại đó nằm cạnh bãi rác, nhìn giống như vứt đi, rất nhiều người đều không biết nó còn dùng được,” Lạc Văn Chu nói, “Bên cạnh buồng điện thoại tìm được một ít máu, trùng với nhóm máu của Quách Phỉ, nhưng lúc ấy không thể kiểm tra ADN, không cách nào xác nhận rốt cuộc có phải cô bé đó hay không, cũng không có dấu vân tay.”

Trong phòng khách nhà Đào Nhiên nhất thời không ai nói gì.

Một lúc lâu, Phí Độ vẫn không lên tiếng mới xen vào hỏi: “Không còn cú điện thoại nào khác? Không sách nhiễu, cũng không đòi tiền chuộc?”

“Không có,” Đào Nhiên nói, “Sau cú điện thoại đó, kẻ bắt cóc không còn liên lạc với gia đình cô bé. Không đòi tiền, cũng không hề đưa ra yêu cầu gì.”

Phí Độ bưng ly rượu lắc nhẹ, ngửi mùi rượu thoang thoảng như có như không, giống như đựng trong ly không phải rượu vang đỏ mua đại ở siêu thị, mà là Romanée Conti vậy.

“Thế thì lạ thật,” Hắn nói, “Nghe như kẻ bắt cóc không phải nhằm vào đứa trẻ, mà là để tra tấn người lớn trong nhà – cha mẹ nạn nhân làm nghề gì?”

“Bản thân Quách Hằng là một giáo viên trung học, mẹ thì là công chức, gia cảnh lúc ấy nhìn không tệ, nhưng cũng chỉ là tầm trung, họ đều là người bình thường mỗi tháng nhận lương cố định, nếu nói giàu có thì cũng không thể. Hai vợ chồng đều được học hành, là người có tri thức hiểu lễ nghĩa, trên công việc không có dã tâm lớn, quan hệ với đồng nghiệp cũng rất tốt, không tồn tại tranh chấp lợi ích, cũng loại trừ khả năng ngoại tình.”

Gia đình bình thường, cha mẹ bình thường, bé gái bình thường – thậm chí cũng không phải là một cô bé xinh xắn, sống theo nề nếp cũ. Như bất cứ một ai đi trên đường, chẳng có gì để khen chê, dù cảnh sát quật ba thước đất cũng chẳng quật ra câu chuyện gì đặc biệt.

Dân ngạn nói “ruồi nhặng không châm trứng lành”, nhưng cảnh sát đã nhiều lần điều tra hết những người có quan hệ với nhà họ Quách, thậm chí việc riêng tư cá nhân cũng cầm kính lúp mổ xẻ một lượt, phát hiện cô bé Quách Phỉ với gia đình chính là một quả “trứng lành”.

Thời gian đang trôi qua, kẻ bắt cóc im lặng cũng không lên tiếng nữa, bất luận là cảnh sát hay người nhà nạn nhân đều biết, cơ hội tìm lại cô bé là rất mong manh, kết cục tốt nhất là bị bán đến một nơi hoang vu hẻo lánh, nhưng khả năng lớn hơn là…

Tại sao kẻ bắt cóc lựa chọn cô bé này, cảnh sát hoàn toàn không có manh mối gì.

Giống như hắn tung xúc xắc ngẫu nhiên trên đường, trúng ai thì trúng vậy.

Vô duyên vô cớ.

Trên thế giới này không có ai là an toàn cả.

Lang Kiều hỏi: “Thế… còn năm đứa bé khác thì sao ạ?”

“Vụ án Quách Phỉ mất tích bị đứt tất cả manh mối, không có biện pháp gì, đành phải bỏ dở. Sau đó sư phụ được điều về thành phố – lúc ấy là ở đội trinh sát hình sự phân cục khu Tỉ Đài, trong khu vực lại xảy ra một vụ án trẻ em đi lạc, vẫn là bé gái, mười hai tuổi, cũng là trên đường tan học thần không biết quỷ không hay mất tích, kẻ bắt cóc vẫn không hé môi một tiếng, đáng sợ nhất là, hai ngày sau khi cô bé mất tích, gia đình cũng nhận được một cuộc điện thoại với tiếng một đứa trẻ gào khóc.”

“Sư phụ lập tức ý thức được bất thường, báo cáo tình hình lên cấp trên, người phụ trách khu Tỉ Đài lúc bấy giờ quyết định báo lên Cục công an thành phố, kết quả phát hiện cả Yến Thành, bao gồm các huyện khu xung quanh, đã xảy ra tới sáu vụ án trẻ em mất tích tương tự.”

“Bảy vụ,” Lạc Văn Chu bổ sung một câu, “Gia đình cô bé cuối cùng may mắn sống sót hoàn cảnh đặc biệt, không có cha, mẹ là bợm rượu, cả ngày chơi bời, con mất tích mấy ngày cũng không biết, căn bản không báo cảnh sát. Chuyện này do Cục công an dẫn đầu, điều động người từ các khu, thành lập tổ chuyên án, sau đó Lão Dương cũng nhờ cơ hội này mới được điều lên cục – nhưng không có tiến triển, giữa mấy bé gái mất tích không hề có điểm chung gì, ngoại trừ…”

Lạc Văn Chu nói đến đây, đột nhiên nhớ tới điều gì, ánh mắt dừng ở Thần Thần cắn ống hút nghe chăm chú không chớp mắt, ngừng lại một lúc, sau đó gượng gạo sửa lời: “Ngoại trừ cách gây án của kẻ bắt cóc đều không khác nhau lắm.”

“Sau khi nghe chuyện, cha Quách Phỉ đã xin nghỉ không lương dài hạn, chuyên môn chạy lên thành phố, muốn chờ một kết quả từ tổ chuyên án, tiếc rằng cuối cùng vẫn thất vọng.” Đào Nhiên hết sức trân trọng cất quyển sổ của ông cảnh sát già vào hộp giấy để lại ngay ngắn, “Sau đó tổ chuyên án cũng giải tán, chỉ còn gia đình nạn nhân và sư phụ người phụ trách ban đầu là vẫn nhớ về vụ án này. Hơn nửa năm sau, Quách Hằng đột nhiên tìm đến sư phụ, nói mình đã tra được người hiềm nghi, là một giáo viên tên Ngô Quảng Xuyên – chính là người trên tranh. Ngô Quảng Xuyên là giáo viên của ‘trung học Cẩm Tú’, Cẩm Tú là trường cấp hai tư thục sớm nhất lúc bấy giờ, học nội trú, chiêu sinh toàn thành phố, học phí cao, chất lượng dạy học cao, không ít phụ huynh huyện khu ngoại thành cảm thấy trung học địa phương tệ, đều đưa con đến Cẩm Tú, khi Quách Phỉ mất tích, Ngô Quảng Xuyên vừa vặn nằm trong đội chiêu sinh của trường đến khu Liên Hoa Sơn.”

Thường Ninh nín thở: “Là ông ta sao?”

“Ngô Quảng Xuyên năm ấy ba mươi sáu tuổi, ly hôn sống một mình, quả thật có điều kiện gây án, Lão Dương từng âm thầm theo dõi, còn dùng vài thủ đoạn phi pháp, nhưng đều chẳng tra được gì. Ngô Quảng Xuyên này tính tình ôn hòa, quan hệ xã hội không tệ, là một người tốt nổi tiếng xa gần, công việc thường xuyên tiếp xúc với trẻ nhỏ, cũng chưa từng làm chuyện gì quá giới hạn. Lão Dương theo dõi một thời gian, cảm thấy không phải người này, nhưng Quách Hằng như bị quỷ ám, khăng khăng khẳng định Ngô Quảng Xuyên chính là kẻ bắt cóc, sau đó Lão Dương rút đi, Quách Hằng tự mình cầm một con dao bổ dưa hấu tìm tới đâm Ngô Quảng Xuyên.”

Lang Kiều “A” một tiếng: “Chết rồi?”

“Ừ, đưa đến bệnh viện thì đã tắt thở, họ phát hiện bé gái mất tích thứ bảy dưới tầng hầm nhà Ngô Quảng Xuyên, cùng với quần áo của sáu cô bé trước – quần áo đều bị cắt thành từng sợi, trên có vết máu phù hợp với nhóm máu của các nạn nhân. Vụ án bắt cóc trẻ em liên hoàn năm ấy cứ thế được phá, nhưng quần áo thì ở đó, mà người không tìm được, sống không thấy người chết không thấy xác, kẻ hiềm nghi chết rồi chẳng còn ai để đối chứng.” Lạc Văn Chu đứng dậy vươn vai, “Quách Hằng cố ý giết người, cũng xử rồi. Lão Dương vẫn canh cánh trong lòng việc này, ông luôn cảm thấy là mình phán đoán sai lầm mới dẫn đến bi kịch về sau, thành thử nhắc suốt cả đời – không nói chuyện này nữa, xương cốt người hiềm nghi cũng lạnh rồi, ăn cơm thôi.”

Mọi người ở nhà Đào Nhiên quậy tung đến tận chiều, người đi taxi với tàu điện ngầm đều về hết, ai tự lái xe tới thì ở lại giúp Đào Nhiên dọn dẹp nhà mới, tiện thể tỉnh rượu, Thường Ninh và Thần Thần cũng về nhà rồi.

Đào Nhiên sau đó lại bị chuốc mấy ly, lúc rửa bát đứng không vững, “toái toái bình an” một cái, bị Lạc Văn Chu đuổi đi. (Chữ toái – vỡ với tuế – năm đồng âm, ngày Tết thường kiêng làm rơi vỡ bát chén vì như thế là xui xẻo, nên nếu lỡ tay làm vỡ bát người ta sẽ nói toái toái bình an – tuế tuế bình an, mong năm nào cũng được bình an)

Đội trưởng Lạc nhanh nhẹn rửa sạch một đống bát đĩa, lúc quay về phòng khách nhìn thấy Phí Độ đang đưa lưng lại lật xem qua quyển sổ của ông cảnh sát già.

Hắn giống như có mắt sau lưng, hỏi Lạc Văn Chu: “Ban nãy có phải anh đã nói thiếu một câu không, các bé gái mất tích nhất định có một điểm chung – là quần áo à?”

Lạc Văn Chu dựa tường phòng khách, bật cười: “Làm sao cậu biết, cậu không phải là hung thủ đầu thai đó chứ?”

“Anh nhìn Thần Thần một cái, sau đó nuốt lại lời muốn nói,” Phí Độ quay người lại, “Quần áo tìm được dưới tầng hầm nhà Ngô Quảng Xuyên kia, không phải đều là váy hoa nhí chứ?”

Lạc Văn Chu vừa nhìn thấy hắn liền nhớ đến cái máy chơi game chết tiệt kia, khá mất tự nhiên tránh né ánh mắt hắn: “Cậu có thể dạy trẻ em đề phòng người lạ, đề cao cảnh giác, nhưng không thể khiến cô bé sợ mặc váy hoa nhí, nếu không còn cần chúng tôi làm gì?”

“Ồ,” Phí Độ nhẹ nhàng gật đầu, “Đội trưởng Lạc nói đúng.”

Lạc Văn Chu hiếm được nghe vài câu nói tốt từ miệng hắn, nhìn cái gật đầu này mà gan run lên, quả nhiên, một giây sau, dự cảm xấu trở thành sự thật.

Phí Độ lẳng lặng hỏi: “Ngoại trừ hoa và máy chơi game ra… còn cái gì nữa?”