PN về huynh đệ Triệu Trác và Triệu Trầm Tầm trong “Trường An Ý”.
Trước rằm tháng giêng, kinh thành đổ trận tuyết.
Cung biến đã trôi qua 3 năm, Triệu Trác kế thừa tước vị, biên cương an định.
… Triệu Trầm Tầm vẫn như cũ, không tìm thấy.
Năm đầu tiên, văn thư truy nã gửi đi khắp nơi, dù Triệu Trầm Tầm có thủ đoạn bằng trời, chắp cánh cũng khó thoát.
Nhưng Tuân Hành Chu tìm trong phạm vi cả trăm dặm cũng không bắt được người.
Năm nào cũng dán văn thư truy nã. Đến năm thứ 3, tân đế đăng cơ, đại xá thiên hạ mới bỏ lệnh.
Tuân Hành Chu vẫn không bỏ cuộc.
Rằm tháng giêng, phố xá sáng đèn.
Tuân Hành Chu tình cờ gặp Triệu Trác.
Triệu Trác thân ở ngôi cao nhưng lại chẳng còn vẻ khí phách và lạnh lùng lệ khí khó thu liễm của kẻ kinh qua chiến trường đã lâu như mấy năm trước. Y ăn bận mỏng manh ngồi uống rượu ở bậc thang ven sông, vừa uống rượu vừa nhìn đèn sông thắp sáng, trôi dạt về chốn chẳng ai hay.
Tuân Hành Chu đi qua đó, ngồi xuống cạnh Triệu Trác, hắn tiện tay cầm vò rượu đặt kế, hững hờ nói: “Rằm tháng giêng vừa qua thì văn thư truy nã hủy toàn bộ, huynh định về biên cương tìm Triệu Trầm Tầm à?”
Ánh mắt Triệu Trác khẽ động, y ngửa đầu uống hớp rượu như bàn chuyện chẳng dính gì đến mình cả, giọng điệu bâng quơ: “Đệ ấy tội ác cùng cực, bắt được là đại tội cực hình, sao ta phải tìm một tội nhân kia chứ?”
Tuân Hành Chu tùy ý: “Cũng phải, đệ ấy hai chân tàn phế, ẩn nấp suốt 3 năm, có khi đã chết ở chốn hoang vu hẻo lánh nào rồi.”
Bàn tay cầm vò rượu của Triệu Trác vô thức siết chặt, chính y cũng chẳng nhận ra điều ấy mà tiếp tục nhắm rượu như chẳng có việc gì.
Chết thì chết thôi.
Dù sau này hai người có gặp lại nhau thì y cũng phải chính tay giết Triệu Trầm Tầm.
Đèn Khổng Minh cháy sáng rợp màn trời đen đặc, chúng hợp với đèn hoa sen giữa dòng sông tôn nhau lên như ảnh phản chiếu đầy hoa lệ.
Hai người im lặng uống cạn hai vò rượu, nhìn người đi đường ngày một vắng bóng. Ngay lúc định tạm biệt thì lão quản gia trong hầu phủ đột ngột lảo đảo chạy tới, vẻ mặt kinh hoảng.
“Hầu gia!”
Triệu Trác đỡ lão, cau mày hỏi: “Trong phủ xảy ra việc gì rồi?”
Bàn tay lão quản gia run run: “Tết Nguyên Tiêu có người thả đèn trường minh, đèn rơi vào toà viện hoang vắng ở phía sau hầu phủ… cháy, cháy rồi.”
Triệu Trác khựng tay.
Sân viện bỏ hoang trong hầu phủ chỉ có một nơi.
Thoáng như có dự cảm, Triệu Trác nói: “Cháy thì dập lửa là được rồi.”
Lão quản gia hoảng sợ nhìn y, đôi dòng lệ đục ngầu chậm rãi chảy xuống: “Bọn ta tìm thấy, trong viện hoang tìm thấy tiểu hầu gia…”
Mi mắt Triệu Trác giật mạnh.
Lão quản gia khóc thất thanh: “Thi thể của tiểu hầu gia.”
Đùng.
Pháo hoa đầy trời bay lên hòa vào chân trời rồi nổ tung, rực rỡ mà ấm áp, xóa tan giá buốt.
Rằm tháng giêng còn chưa tàn thì Triệu Trác đã về phủ.
Tuân Hành Chu nghe loáng thoáng đã tìm thấy Triệu Trầm Tầm trong sân viện bỏ hoang ở hầu phủ, hắn vô thức nghĩ Triệu Trác lén giấu đệ đệ ruột mình đi, nhưng nghe kỹ thấy hai tiếng “thi thể” thì khẽ sững sờ.
Triệu Trầm Tầm… chết rồi sao?
Hầu phủ có phủ binh trông coi, dù là sân viện bỏ hoang nhiều năm bốc cháy thì cũng dập lửa kịp lúc chứ nói chi đêm nay có tuyết, chỗ bị đốt cháy cũng chỉ có một khoảnh cỏ khô mà thôi.
Triệu Trác lạnh lùng giục ngựa về phủ, nhanh chân bước vội đi về phía sân viện hoang vắng đã nhiều năm mình không ghé tới.
Phủ binh gác tại cổng vào, không cho kẻ dưới vào nhòm ngó, thấy Triệu Trác mới nối nhau hành lễ.
“Hầu gia.”
Trông Triệu Trác không khác gì lúc làm công vụ ngày thường: “Ừm, tìm người tới xem chưa?”
“Vâng.” Phó tướng thận trọng quan sát sắc mặt Triệu Trác, gã châm chước câu chữ, “Lý quản gia tới nhận rồi, xe lăn là do phường mộc cung đình làm riêng, có ấn độc nhất vô nhị của Lỗ sư phụ, quần áo, áo lông chồn, ngọc bội đều là của Triệu Trầm Tầm…”
Vẻ mặt Triệu Trác không có chút thay đổi, song phó tướng theo y đã nhiều năm nhận ra vấn đề ngay, gã vội sửa lời: “... đều là của tiểu hầu gia, hơn nữa…”
Phần lời phía sau gã không dám nói.
Chân mày Triệu Trác chẳng cử động: “Nói.”
“Hơn nữa….” Phó tướng thấp giọng, “Trong thi cốt của tiểu hầu gia có bài vị của ngài.”
Bàn tay rũ trong tay áo của Triệu Trác khẽ co lại.
Thấy mãi mà Triệu Trác không lên tiếng, phó tướng bèn thử thăm dò: “Thuộc hạ đã nhặt thi thể tiểu hầu gia vào quan tài, ngài… nhìn một cái không?”
Triệu Trác chăm chú nhìn cánh cổng viện cũ nát, bóng tối trong đấy như bồn máu há to, muốn nuốt chửng người ta vào bụng.
Lâu sau, kinh thành lại có tuyết bay phất phới.
Triệu Trác lùi nửa bước, y rời đi, chẳng buồn ngoảnh đầu lại, chỉ thuận miệng nói: “Tùy ý tìm chỗ nào chôn cất đi.”
Phó tướng đưa mắt nhìn mấy người xung quanh.
Không… không nhập vào mộ tổ sao?
Lúc này Tuân Hành Chu đến muộn, hắn gạt phó tướng ra, định đi vào.
Phó tướng vội ngăn hắn: “Tuân đại nhân dừng bước!”
Tuân Hành Chu lạnh nhạt đáp: “Văn thư truy nã còn chưa gỡ bỏ, Triệu Trầm Tầm vẫn là yếu phạm của triều đình, tránh ra… hắn đã thành một đống xương rồi, chẳng lẽ ta còn có thể lấy mạng hắn nữa sao?”
Phó tướng do dự chốc lát, rốt cuộc vẫn tránh ra nhường hắn đi vào.
Thi thể có bê bết máu thịt thế nào đi nữa thì Tuân Hành Chu hắn cũng đã từng thấy huống chi chỉ là đống xương chẳng còn hình hài chi.
Gió lạnh thổi từng cơn trong tòa viện hoang vắng, tuyết bay đầy trời.
Trong lúc vội vã, phó tướng tìm được chiếc quan tài mỏng. Suốt ba năm dãi nắng dầm mưa, áo lông của Triệu Trầm Tầm còn chưa hư hao hẳn, bao lấy thi cốt vương đầy tuyết, đặt vào trong quan tài.
Sinh thời kim tôn ngọc quý thế nào, chết rồi thì cũng chỉ trơ nắm xương khô.
Bên cạnh thi thể đặt chiếc bài vị bong tróc sơn.
… Linh vị huynh trưởng Triệu Trác.
Dù Triệu Trầm Tầm đã chết, tay hóa xương trắng thì hắn vẫn ôm chặt miếng bài vị mình chính tay khắc.
Tuân Hành Chu rũ mắt nhìn thật lâu rồi khẽ khàng nhắm mắt lại.
Phó tướng đi tới, ngập ngừng nói: “Hầu gia nói phải tìm chỗ nào chôn cất qua loa, Tuân đại nhân…”
“Khoan hẵng đậy nắp quan.” Hắn nhắm mắt niệm chú vãn sinh rồi ngẩng đầu lên, “Hiện giờ thời tiết hãy còn rét, không cần chôn vội.”
Triệu Trầm Tầm phơi thây trong sân viện hoang vắng 3 năm, vội gì một khi một thì.
Huống chi Triệu Trác còn chưa nhìn một lần.
Tuân Hành Chu với Triệu Trác giao hảo nhiều năm, hắn rất rõ tính Triệu Trác.
Dù Triệu Trầm Tầm có là tên điên cùng hung cực ác, đùa giỡn tất cả mọi người trong lòng bàn tay, biết bao kẻ bỏ mạng vì hắn đi nữa thì suy cho cùng, hắn là người họ Triệu, còn là ấu đệ của mình, Triệu Trác vẫn sẽ không mong Triệu Trầm Tầm chết.
Với y mà nói, ba năm này tìm không thấy bóng người mới là kết quả tốt nhất.
Giờ đã tìm thấy thi thể, Triệu Trác lại chẳng buồn nhìn tới, nếu như vội vã chôn cất, có lẽ y sẽ hối hận.
Trong một chốc phó tướng cũng không nghĩ được cách nào, chỉ đành đậy quan tài lại trước, chờ hầu gia tỉnh rượu rồi tính sau vậy.
Sáng sớm, tuyết ngừng rơi.
Triệu Trác thượng triều như từ trước đến nay, chẳng có chút biến hóa nào.
… Như đã quên đi chiếc quan tài lẻ loi trong đêm tuyết ngày rằm tháng giêng nọ.
Ban đầu phó tướng rất lưỡng lự, nhưng về sau, suốt cả tháng trời, Trường An đã vào xuân mà Triệu Trác vẫn như cũ, không nhắc tới chuyện của Triệu Trầm Tầm. Gã chỉ đành tìm một chỗ ngoài thành, hạ táng thi thể.
Toà viện hoang lại khóa kín.
Không lâu sau là đến thanh minh.
Sau khi tế tổ, Triệu Trác quay về từ đường nhà họ Triệu dâng hương. Y nhìn trong phòng đặt đầy linh vị, như ma xui quỷ khiến, y chợt nhớ tới miếng bài vị năm đó Triệu Trầm Tầm khắc cho cho mình.
Hồi ấy y sống sót thoát khỏi chiếu ngục, về tới hầu phủ thì thấy ngay cảnh Triệu Trầm Tầm ôm bài vị mình, mặt mày đầy vẻ nghi hoặc với mịt mờ vô hại.
Hồi ấy lửa giận đầy cả lồng ngực, Triệu Trác đâu có thời gian nghĩ…
Hồi ấy nếu y chết trong chiếu ngục thật, Triệu Trầm Tầm sẽ ôm bài vị mình đi đến chốn nào?
Liệu kết cục có giống như hôm nay? Vô thanh vô thức chết cùng miếng bài vị ở nơi chẳng người hay biết chăng?
Nếu không có chiếc đèn Khổng Minh nọ, có lẽ vĩnh viễn cũng chẳng có ai phát hiện ra thi thể của đệ ấy.
Triệu Trác ngẩn ngơ hồi lâu, lau chùi bài vị như chẳng có việc chi.
Người đã chết rồi.
Không cần truy cứu nhiều làm chi.
Triệu Trác giết một đường, bước ra từ núi thây biển máu, y chưa từng sa đà vào tình cảm. Trên chiến trường, y là thanh kiếm bén nhọn máu lạnh không lùi bước, là ai đi nữa cũng chẳng thể khiến y dừng chân dù chỉ chốc lát.
Có là Triệu Trầm Tầm thì cũng sẽ như vậy.
Kể cả khi Triệu Trác biết Triệu Trầm Tầm lẻ loi cô độc chết trong tòa viện hai người từng sống thuở nhỏ, y cũng chẳng hề dao động chút cảm xúc.
Mà cũng có thể là có, chỉ là chính y cũng chẳng nhận ra.
Buổi tối, Triệu Trác vẫn vào giấc.
Chỉ là hiếm khi y có một giấc mơ.
Vẫn là tiểu viện thời ấu thơ.
Lúc đó Triệu Trác còn chưa rời kinh, hai chân Triệu Trầm Tầm hãy còn hoàn hảo. Đứa trẻ 5 tuổi, cái tuổi hoạt bát hiếu động vui vẻ đạp nước trong ao đùa nghịch giữa ngày hè oi bức.
Từ nhỏ Triệu Trác đã tĩnh tâm, y ngồi ở cửa xem binh thư, mặc nó làm ồn bên tai, cũng chẳng chê phiền.
Tay chân Triệu Trầm Tầm toàn nước, nó đứng giữa hồ gào tiếng giòn tan: “Ca ca!”
Triệu Trác đắm chìm vào binh thư, không hề đáp lại.
Triệu Trầm Tầm lại cao giọng, nó vốc nước lên người y: “Ca!”
Lần này Triệu Trác đã nghe song vẫn chẳng để ý tới nó.
Con nít hay thay đổi, thường nếu không được đáp lại thì sẽ tự mình chơi tiếp.
Hồi trước toàn là như vậy.
Nhưng lần này trước sau Triệu Trầm Tầm vẫn cứ gọi y, hình như quyết phải chờ được lời đáp lại vậy.
Hiếm được lần Triệu Trác nổi lên ý muốn đùa dai, y cố tình lờ nó, muốn xem xem tới khi nào nó mới thôi.
Triệu Trầm Tầm còn đang gọi y, chỉ là giọng trẻ con nớt ngày một kỳ quái.
“Ca ca.”
“Huynh trưởng….”
Một ngọn lửa cháy lên, đốm lửa chậm rãi bay đến chỗ binh thư.
Triệu Trác sững sờ, rốt cuộc y cũng bỏ dở binh thư, ngẩng đầu nhìn lên.
Tiểu viện yên tĩnh nháy mắt đã hóa thành tòa viện hoang vắng đổ nát, tuyết rơi trắng xóa. Triệu Trầm Tầm mới nãy còn là đứa trẻ giờ đã cao ngất, hắn đứng bên hồ nước cạn khô, thân người toàn là lửa đỏ.
Hằn vẫn nhìn Triệu Trác, hốc mắt chậm rãi chảy xuống hai hàng lệ máu.
“Ca ca…”
Triệu Trác ngừng thở ngay.
Triệu Trầm Tầm vươn tay về phía y, giọng điệu run run, hắn gọi trong tiếng nức nở: “Ca ca, lửa cháy thân mình, đệ đau lắm.”
Mơ là vậy, chẳng đầu chẳng đuôi, chẳng chút lý lẽ.
Triệu Trác chỉ cảm thấy rùng mình, khi y có lại ý thức thì binh thư đã cháy, y nhanh chân vọt tới cạnh bên hắn, muốn ôm lấy Triệu Trầm Tầm đẫm lửa vào lòng, toa rập dập tắt ngọn lửa ấy.
Ngọn lửa cắn nuốt quần áo Triệu Trầm Tầm, lan tràn lên người hắn, bàn tay rũ xuống bên người dần hóa xương khô trắng toát.
Triệu Trầm Tầm ngơ ngác kéo tay áo Triệu Trác, toàn tâm toàn ý dựa dẫm huynh trưởng mình như lúc nhỏ.
Hắn rì rầm lặp đi lặp lại: “Ca, đệ đau quá, không thích lửa.”
Mặc Triệu Trác có làm gì đi chăng nữa, ngọn lửa trên người Triệu Trầm Tầm vẫn chẳng dập được chút nào. Bàn tay cầm kiếm quanh năm vững như bàn thạch của y giờ đây không ngừng run rẩy. Y giơ tay lên, chạm vào gương mặt của Triệu Trầm Tầm.
Nhấc tay lên rồi Triệu Trác mới ý thức được lúc này mình hệt như thuở thiếu niên, lòng bàn tay gầy gò, chẳng có vết thương vết chai thật dày được mài giũa từ trong sương gió như khi trưởng thành.
Nước mắt của Triệu Trầm Tầm rơi tí tách nhưng cũng chẳng dập tắt được ngọn lửa trên thân mình. Hắn ngơ ngác nhìn Triệu Trác, lời nói mỗi lúc một kỳ quái.
“Ca ca… Đệ không thích chốn này.”
“Huynh trưởng, huynh ghét đệ đến vậy sao?”
Triệu Trác giật mình ngẩng đầu.
Vẻ ngây thơ trong trẻo nơi đáy mắt Triệu Trầm Tầm đã chẳng còn nữa, gương mặt đẫm lệ cũng chẳng giấu nổi vẻ lạnh lùng nơi ấy nữa.
“Triệu Trác, ta là nỗi sỉ nhục của nhà họ Triệu sao?”
Triệu Trác đờ người ra đó, môi y khẽ mấp máy: “Không…”
Cuối cùng ngọn lửa cũng cháy lan tới ngực, nước mắt trên gương mặt Triệu Trầm Tầm vẫn còn đó nhưng hắn đã chẳng gọi ca ca nữa, chỉ để lại câu sau cùng.
“... Huynh đừng tới đón ta, ta chẳng cần nữa.”
Nháy mắt ngọn lửa nuốt trọn người hắn, thi cốt chẳng còn, đốm lửa đầy trời, ngập tận chín tầng mây.
Triệu Trác giật mình tỉnh giấc.
Còn chưa rạng sáng.
Triệu Trác ngồi trên giường, con tim nện như trống. Dường như y ý thức được gì đó mới đưa tay lên chạm vào mặt.
Sờ được nước mắt.
Dường như bên tai y còn văng vẳng câu nói kia của Triệu Trầm Tầm.
Một câu vô thưởng vô phạt ấy đáng ra chẳng thể tạo thành ảnh hưởng gì tới Triệu Trác cả, song y lại ôm lấy lồng ngực phát đau của mình, chẳng nhịn được phải thở dốc, nước mắt như cũ, chẳng ngừng chảy xuôi xuống.
Triệu Trầm Tầm…
Bao nhiêu lời mà khi xưa y phớt lờ giờ ào ạt đổ vào đầu mình.
“Ca ca, đệ không muốn ở kinh thành, lần sau huynh về biên cảnh, có thể dẫn đệ theo cùng không?”
“Ca ca chúng ta cùng đi đi, có được không?”
“... Chỉ cần rời khỏi đây.”
Cuối cùng hắn để lại một câu trong giấc mơ.
“Huynh đừng tới đón ta, ta chẳng cần nữa.”
Triệu Trác đau đến chẳng thể hít thở, y loạng choạng khoác tấm áo, bước xuống giường: “Người đâu!”
Phó tướng gác đêm đứng bên ngoài, nghe vậy vội bước tới.
“Hầu gia?”
“Triệu Trầm Tầm…” Triệu Trác khó nhọc hỏi, “Triệu Trầm Tầm được chôn ở đâu?”
Phó tướng sửng sốt.
Đã lâu vậy rồi, sao lại đột nhiên nhắc đến kia chứ?
“Rừng mộ phần ở Thành Nam.” Phó tướng lúng túng đáp.
“Đưa ta đi.”
Phó tướng do dự: “Giờ còn đang giới nghiêm, hầu gia…”
Triệu Trác liếc gã.
Lúc này phó tướng mới phát hiện ra tướng quân vững vàng bình tĩnh giờ đây hai mắt đầy tơ máu, như loài thú bị vây hãm, mang theo tính công kích mạnh mẽ.
Gã vội nói: “Vâng!”
Đêm khuya tĩnh lặng, hai người giục ngựa rời thành.
Chỉ là còn chưa tới khu rừng mộ phần ở Nam Thanh thì đã trông thấy ánh lửa rợp trời từ đằng xa, hình như khu rừng đang bốc cháy.
Phó tướng cả kinh, vội chạy qua đó.
Hôm qua là thanh minh, có không ít người tới đây tế tổ, lúc đốt giấy tiền chắc là dập lửa không kỹ mới làm cháy núi rừng. Lúc này đã cháy quá nửa, quan binh đang cố gắng dập lửa nhưng chẳng được trò trống chi.
Phó tướng trông theo hướng thì ngoái lại, gã căng da đầu nói cho Triệu Trác biết quan tài của của Triệu Trầm Tầm được chôn ở nơi đang bốc cháy, trong một chốc chẳng thể nào đi qua đấy cả.
Triệu Trác khoác tấm áo mỏng, y ngơ ngác đứng giữa chốn núi rừng, nhìn ngọn lửa vọt đến tận trời xanh, hoảng hốt tựa giấc chiêm bao.
Tiếng khóc run run của Triệu Trầm Tầm dường như còn đang văng vẳng bên tai y.
“Lửa thiêu thân mình, đệ đau lắm.”
Lửa đang thiêu đốt đệ ấy.
Chỗ bá tánh bình dân chôn cất chẳng phải chỗ phong thủy đắc địa, đại phú đại quý gì cho cam. Chỗ xa xôi hẻo lánh như vậy, đêm về cũng chẳng có lấy nửa tia sáng.
Triệu Trầm Tầm sợ tối như vậy…
Mà y cứ thế kêu người ta tùy tiện chôn cất thi thể đệ ấy ở nơi như vậy, chịu cảnh lửa thiêu sao?
Trong một chớp mắt, nỗi đau mà y lờ đi suốt ngần ấy tháng ngày đột ngột ùa vào con tim.
Lần đầu tiên Triệu Trác ý thức được…
Đệ đệ ruột của y, mất rồi.
Người đệ đệ mà y nhìn lớn lên từ tấm bé, người đệ đệ mà cho dù y bán mạng ngoài sa trường cũng mong người ở kinh thành ăn ngon mặc đẹp, chẳng bị người ức hiếp…
Chết trong tiểu viện hai người ở cùng nhau, chỉ cách y có một khoảng viện.
Mà y nào có hay.
Ba năm ròng rã, thi thể Triệu Trầm Tầm hóa đống xương trắng, cô đơn lẻ loi nằm trong tòa viện hoang vắng, không ai người nhặt xác cho. Đến cả lại gần mà y còn chẳng nghĩ tới, mặc cho đệ đệ mình hồn phách khó yên.
Ba năm Triệu Trầm Tầm biệt tăm, Triệu Trác từng nghĩ hẳn đệ ấy đã trốn đến nơi không ai biết mình, sống đời ẩn cư, cũng từng nghĩ liệu có phải đệ ấy chết rồi chăng.
Nhưng cũng đâu tận mắt trông thấy, vậy nên tiềm thức có thể an ủi, rằng người vẫn còn sống.
Cho đến lúc ngọn đèn Khổng Minh rơi xuống thiên viện.
Triệu Trác ngẩn ngơ nhìn chốn núi rừng lửa cháy ngập trời, cháy đến chẳng gì, đến trưa hôm sau mới tắt.
Phó tướng đưa Triệu Trác đi tìm mộ phần của Triệu Trầm Tầm.
Chỉ một đêm, vẻ mặt Triệu Trác cũng chẳng tính là bi ai, chỉ có mái tóc thoáng sợi trắng.
Trên đường đi, phó tướng thử khuyên y: “Tuy thế lửa to nhưng quan tài chôn cất dưới tất, chắc chắn sẽ không xảy ra việc gì đâu.”
Triệu Trác “ừ” nhạt một tiếng.
Chốc sau, phó tướng tìm đến mộ địa theo ký ức.
Trước thanh minh có đổ cơn mưa to, có vẻ phần mộ địa ấy nằm ở vị trí chẳng tốt gì, đất sụp cả mảng, quan tài lộ ra non nửa. Lại thêm lửa nóng cháy, đã cháy thành ụ đất.
Mặt mày phó tướng cứng đờ.
“Hầu gia, đây…”
“Không sao.”
Triệu Trác thản nhiên, y vén áo bào, đi tới chỗ hố mộ cháy đen.
Vẫn còn phần gỗ chưa cháy cạn, đốm lửa hãy còn âm ỉ. Triệu Trác như chẳng nhìn thấy cảnh đó vậy, y vươn tay ra, vun đống đất cháy đen ấy lại, khẽ khàng nói: “... Ta đưa đệ đi.”
Thi thể Triệu Trầm Tầm đã chẳng còn.
… đã chẳng muốn đi cùng y nữa.
Thu vén nắm đất cháy khô, tay Triệu Trác chạm vào một vật rắn chắc, y sờ soạng moi nó ra, vẻ mặt thoáng giật mình.
… Đó là mảnh ngọc y tặng cho Triệu Trầm Tầm trước lúc mình đến biên quan thuở niên thiếu.
Miếng ngọc hơi nóng, Triệu Trác muốn thử lau đi lớp bùn trên mặt ngọc, nhưng y vừa chạm đến nghe tiếng vang giòn tan.
Rắc.
Ngọc vỡ nát trong tay y.
Triệu Trác giữ nguyên động tác dợm lau mảnh ngọc ấy rất lâu rồi mới khẽ cúi đầu vun vén ụ đất cháy nọ trong sự chết lặng. Lòng bàn tay y bị ngọn lửa còn chưa cháy cạn kia làm bỏng, rớm cả máu.
Nếu thuyết quỷ thần là thật, vậy Triệu Trầm Tầm dùng đủ mọi cách là muốn nói Triệu Trác hay, đừng chạm vào hắn.
Triệu Trác đâu phải kẻ dễ dàng để người khác khống chế. Đôi bàn tay toàn máu mà y vẫn lặng thinh gom góp đất cháy, mang về hầu phủ rồi cất vào quan tài.
Đêm đã khuya, Triệu Trác rửa sạch tay mình, yên ắng về phòng ngủ.
Đêm đó, một đêm chẳng mộng mị.
Sau đó Triệu Trác lấy áo quan của Triệu Trầm Tầm chôn vào phần mộ tổ, còn bài vị đưa vào từ đường.
Rồi y lại sửa sang lại tòa viện bỏ không đó theo ấn tượng lúc nhỏ, sau đấy dọn khỏi chủ viện của hầu phủ, vào đó ở.
Nhưng dù Triệu Trác có làm gì đi chăng nữa thì Triệu Trầm Tầm vẫn chẳng chịu đi vào giấc mộng của y.
Dường như sau lời cuối cùng nói trong giấc mơ đêm thanh minh nọ, Triệu Trầm Tầm đã chẳng còn gì luyến lưu và mong ngóng.
Lúc Tuân Hành Chu tới hầu phủ tìm Triệu Trác vì công vụ, vừa gặp mặt y, hắn đã giật mình.
Chỉ hai tháng ngắn ngủi mà Triệu Trác như biến thành kẻ khác vậy. Y xếp bằng ngồi trong từ đường, đối mặt với linh vị, không biết đang suy nghĩ cái gì nữa.
Nghe phó tướng nói, ngày nào y cũng ngồi xuống bồ đoàn, hồn ngẩn ngơ.
Tuân Hành Chu ngập ngừng đi qua gọi: “Mạnh Hiển?”
Mạnh Hiển là tự của Triệu Trác.
Mắt Triệu Trác khẽ động, y ngẩng đầu lên nhìn: “Tuân đại nhân có việc gì sao?”
Tuân Hành Chu: “Ừm, việc công… Huynh đây là đang làm gì vậy?”
Triệu Trác cười nhạt: “Chẳng làm gì cả.”
Hai người qua quýt bàn chuyện công, Tuân Hành Chu lờ mờ nhận ra hình như Triệu Trác đã giao quyền lại cho thủ hạ. Hắn ngập ngừng thật lâu rồi hỏi: “Huynh có dự tính gì sao?”
Triệu Trác cũng chẳng giấu: “Ta phải về biên cương.”
Tuân Hành Chu cau mày: “Huynh mới về kinh được bao lâu chứ? Vả lại mấy năm trước huynh có công cứu giá, tiền đồ thênh thang ngay trước mắt lại về biên cương ngay lúc này…”
“Ta vốn cũng chẳng có hoài bão gì lớn lao.” Triệu Trác nhạt giọng, “Ta liều mạng chốn sa trường, một là để báo thù cho phụ thân, hai…”
Là vì bảo vệ Triệu Trầm Tầm chốn kinh kỳ.
Giờ đầy thù đã rửa, Triệu Trầm Tầm cũng mất rồi.
Y ở lại vũng nước đục kinh kỳ chỉ thấy phiền chán thôi.
Hơn nữa Triệu Trầm Tầm vẫn luôn muốn rời khỏi kinh thành, tới biên cương. Tuy là lúc sống Triệu Trác chẳng thể đưa Triệu Trầm Tầm đi, giờ hắn lại chán ghét, xa lánh, không muốn đi.
Nhưng Triệu Trác độc đoán ngang ngược đã quen, y mặc kệ ý nguyện của Triệu Trầm Tầm, cố chấp sắp xếp hết thảy, chọn ngày đưa bài vị về biên cương.
Nếu Triệu Trầm Tầm không chịu thì vào trong mơ mắng y là được.
Tuân Hành Chu chẳng thể hiểu được: “Vậy còn tước vị của nhà họ Triệu?”
“Trưởng lão trong tộc sẽ nuôi nấng một đứa trẻ, thành niên thì sẽ kế thừa vị trí hầu tước.” Triệu Trác chưa từng lưu luyến quyền thế. Chỉ mấy tháng ngắn ngủi này mà y đã sắp xếp thỏa đáng hết mọi việc.
Y đứng dậy khỏi bồ đoàn, nhìn gốc cây đã bắt đầu rơi lá thu, hình như lại bắt đầu lơ đễnh.
Nhất thời Tuân Hành Chu cũng không biết phải nói sao, nhưng hắn rất rõ tính khí của Triệu Trác. Hắn cân nhắc thật lâu rồi chỉ nói câu.
“Được. Vậy bảo trọng.”
“Ừ.”
Tuân Hành Chu cất bước rời khỏi từ đường, đi được mấy bước, ma xui quỷ khiến, hắn ngoảnh đầu nhìn lại.
Triệu Trác đứng giữa ánh nắng, áo bào rộng khoác trên vai đong đưa theo cơn gió. Mái tóc chưa từng cẩu thả giờ rối tung, nom y thật gầy gò nhếch nhác. Y hơi ngửa đầu lên nhìn chiếc lá rơi xuống nhảy múa theo cơn gió.
Lại là một năm lá mùa thu rơi, biên cương đất rộng trời cao.
Ta dẫn lối, để hồn về chốn xưa.