"Tùy Hành đưa tay, ôm chặt cành hoa mơ vào lòng..."
Hiển nhiên Tùy Hành rất hứng thú với tin này.
Hắn hỏi: "Vì sao không tốt?"
Trần Kỳ đáp: "Thần nghe nói sau cuộc gặp mặt năm ngoái, Mạnh thần y ở lại Mộ Vân Quan hơn một năm. Mà Mạnh Huy vốn là người tâm cao khí ngạo, hành tung bất định, bình thường thích lên núi thu thập các loại thảo dược quý hiếm, có thể giữ chân ông ấy lâu như vậy, nhất định là Giang Dung Dữ bị thương nặng. Hơn nữa thần nghe nói, mỗi tháng vương cung Giang quốc đều dùng số tiền lớn mua một loại thuốc trị nứt xương, vết thương của Giang Dung Dữ, đa phần là vẫn chưa khỏi."
Dĩ nhiên Tùy Hành đã sớm dự đoán được chuyện này, bởi vì mũi tên năm đó của hắn không phải là mũi tên thông thường, mà là loại được chế tạo bằng sắt đen, Giang Dung Dữ chỉ gãy xương đã xem như nhẹ lắm rồi.
Nếu hắn dùng mười phần lực, chắc chắn sẽ bắn gãy cánh tay của y.
Vì mũi tên lần trước chủ yếu để dạy cho Giang Dung Dữ một bài học, nên hắn không dùng hết sức lực.
Có điều, đối phó với tên ngụy quân tử đó, như vậy đã đủ.
Cơn đau nứt xương kéo dài suốt hai năm. Ha! Tùy Hành đột nhiên cảm thấy vui sướng, hắn hỏi: "Vương cung Giang quốc mua thuốc gì? Vì sao mỗi tháng đều phải mua?"
Hai năm nay, cùng với sự sụp đổ của Nhan thị, không ít hàn môn học sĩ ở Giang Bắc gia nhập dưới trướng Tùy Hành. Hiện nay phủ Thái tử nhân tài đông đúc, mãnh tướng vô số.
Trong đám mưu sĩ, ngoại trừ Trần Kỳ, còn có cặp huynh đệ họ Lục với tài năng xuất chúng, một người tên là Lục Tế Thế, một người là Lục An Dân, tuy bọn họ xuất thân ở thôn quê, nhưng lại học rộng biết nhiều, giỏi bày mưu tính kế.
Nghe thấy lời này của Tùy Hành, Lục Tế Thế lập tức đáp: "Nếu thần đoán không sai, có lẽ đó là "Tử Long Cốt"*."
"Tử Long Cốt?"
Lần đầu tiên Tùy Hành nghe đến thứ này.
Lục Tế Thế vội đáp: "Chỉ là cách gọi hoa mỹ mà thôi, thực chất đây là một loại cỏ linh chi màu tím quý hiếm, "Long Cốt" ý chỉ phần rễ của nó. Thần nghe nói, vì sản lượng thấp nên loại linh chi này rất quý hiếm, hơn nữa rời đất một tháng thì dược tính cũng sẽ mất đi. Vì thế nếu muốn dùng làm thuốc thì phải dùng loại vừa mới hái. Có lẽ vì nguyên nhân này mà cứ cách mỗi tháng vương cung Giang quốc đều phái người đi mua."
Có bài học từ nai sừng tấm trắng, Tùy Hành hỏi: "Tử Long Cốt mà ngươi nói, chúng thường mọc ở đâu?"
Lục Tế Thế đáp: "Khắp Giang Nam Giang Bắc, núi sâu rừng già đều có thể tìm thấy, nhất là những nơi có cây cổ thụ lâu năm, không giới hạn ở bất kỳ quốc gia nào. Có điều linh chi tím ưa lạnh, xét về điều kiện khí hậu, có lẽ là mọc nhiều ở Giang Bắc."
Lục Tế Thế là người thông minh, lập tức hiểu được lo lắng của Tùy Hành, y đáp: "Điện hạ yên tâm, vật này quý hiếm khó tìm, kể cả là những người nông dân quanh năm lên núi hái thuốc cũng không dễ gì tìm được, hơn nữa Tử Long Cốt thường mọc ở những nơi có loài rắn độc sọc tím canh giữ, người bình thường không dám lại gần."
Ánh mắt Tùy Hành lạnh lùng sắc bén, hắn nhanh chóng đưa ra quyết định: "Cô muốn các ngươi tiêu hủy toàn bộ Tử Long Cốt, từ hôm nay trở đi, tất cả tiệm thuốc ở Giang Bắc không được phép buôn bán thứ này, chỉ cần phát hiện, lập tức giết không tha."
Lục Tế Thế lớn tiếng đáp vâng.
Những mưu sĩ khác cũng tỏ vẻ đồng ý.
Chiến tranh giữa các nước, xưa nay chưa từng quan tâm đến đạo đức, chỉ riêng ước định vào hai năm trước là ngoại lệ. Ngày nay, toàn bộ an nguy của Giang quốc đều phụ thuộc vào Giang Dung Dữ, nếu có thể trực tiếp diệt trừ người này mà không cần đổ máu, đó mới là binh gia thượng sách.
Nửa tháng sau, Phạm Chu từ Mộ Vân Quan trở về Giang đô, bẩm báo với Giang Uẩn về tin tức gần đây quân Tùy bắt đầu điều động một lượng lớn binh mã ở bờ Bắc sông Hoàng Hà.
Thời gian ước định sắp đến, Thái tử Tùy Hành dĩ nhiên đã hạ quyết tâm vượt sông Hoàng Hà tấn công Giang quốc. Nhưng vẫn còn một chuyện khiến Phạm Chu lo lắng.
"Gần đây Tề quốc cũng bí mật phái binh mã xuống phía Nam, tiệc sinh nhật vừa rồi của Tùy đế, Tề vương đặt biệt cử thừa tướng Điền Khuyết đến Tùy đô, e là còn có ý đồ khác. Thuộc hạ lo lắng, Tề quốc và Tùy quốc sẽ nhân cơ hội này hợp tác, tấn công Giang quốc."
Tề quốc binh nhiều tướng mạnh, nếu bọn họ thật sự tham chiến, vậy thì áp lực mà Giang quốc phải đối mặt sẽ không thể tưởng tượng được.
Giang Uẩn im lặng lắng nghe, lông mi cụp xuống, không có biểu cảm gì đặc biệt, đôi mắt vẫn trong veo, y nói: "Cô đã biết, cô sẽ chọn ngày thích hợp lên Bắc, đích thân đến Mộ Vân Quan giám sát trận chiến, tiên sinh vất vả rồi, về sớm nghỉ ngơi đi."
Phạm Chu vẫn lo lắng, nói: "Nhưng sức khỏe của điện hạ..."
Giang Uẩn nói không sao.
Thứ gì đến cũng phải đến, không thể tránh được.
Phạm Chu thở dài.
Thời gian một năm rưỡi này, tình hình Giang quốc quả thật có những thay đổi đáng kể, toàn bộ đất hoang ở Mộ Vân Quan được đưa vào sử dụng, sản lượng lương thực cũng tăng gấp bội, đồng thời cũng xây dựng thành công kho thóc chuyên cung cấp lương thực cho quân đội. Nếu có thêm chút thời gian tăng cường và củng cố lại Phong Hỏa đài bên ngoài Mộ Vân Quan, Giang quốc chắc chắn có đủ sức chống lại thiết kỵ của quân Tùy.
Chỉ tiếc, thời gian như thoi đưa, kẻ có dã tâm bừng bừng như Thái tử Tùy quốc, tuyệt đối sẽ không cho Giang quốc cơ hội trở mình.
Mặt khác, Phạm Chu cũng rất lo lắng cho sức khỏe của Giang Uẩn.
Những người khác không biết, nhưng ông đã tận mắt chứng kiến Giang Uẩn hôn mê ba ngày ba đêm, sốt cao không ngừng, suýt nữa đã bỏ mạng sau cuộc gặp mặt trên sông.
Ba mươi chén rượu Cao Lương, cộng thêm mũi tên sắt đâm xuyên qua cánh tay, dù là võ tướng mạnh mẽ đến đâu cũng không thể chịu nổi, huống hồ gì một Thái tử ốm yếu như điện hạ.
Thời điểm rút mũi tên, dù Mạnh thần y đã dùng thuốc gây tê, nhưng điện hạ vẫn ngất đi mấy lần vì đau đớn, hàm răng cắn chặt, mồ hôi lạnh thấm qua mấy lớp chăn.
Điều kiện sinh hoạt ở Mộ Vân Quan khó khăn, với tình hình cơ thể lúc đó, điện hạ vốn nên quay về Giang đô dưỡng thương, nhưng vì lệnh khai khẩn đất đai và kế hoạch xây dựng Phong Hỏa đài vẫn còn đó, còn có tiểu hoàng tôn, điện hạ chỉ đành ôm bệnh ở Mộ Vân Quan chịu đựng suốt một tháng, sau đó mới quay về Giang đô.
Khó khăn lắm mới được nghỉ ngơi dưỡng sức đã phải lập tức lên Bắc, làm sao điện hạ chịu cho nổi?
Nhưng chiến sự lần này quan trọng, Thái tử Tùy quốc từng bước uy hiếp, điện hạ đích thân tọa trấn biên quan, giám sát trận chiến cũng là bất đắc dĩ. Phạm Chu chỉ có thể đáp vâng, hành lễ lui xuống.
Giang Uẩn một mình ngồi trong bức rèm xử lý công vụ chồng chất.
Sắc trời sẩm tối, cung nhân đã dẫn tiểu Giang Nặc đi ngủ, Giang Uẩn đặt bút xuống, nhẹ nhàng ấn vào cánh tay phải.
Mặc dù đã dưỡng thương hơn nửa năm, nhưng mỗi khi trời mưa hoặc thời tiết trở lạnh, cánh tay phải của Giang Uẩn đều đau đớn không thôi. Cho nên kể từ sau mùa thu, y đã không còn dùng tay phải viết chữ nữa.
Nhưng điều này cũng không làm dịu đi phần nào cơn đau, nhiều nhất chỉ khiến nó không còn nghiêm trọng hơn mà thôi.
Công Tôn Dương mang canh thuốc chữa bệnh dạ dày đến như thường lệ, màu sắc đen kịt, còn toát ra vị đắng nhàn nhạt, Giang Uẩn không muốn uống cho lắm, y mở chiếc lọ sứ bên cạnh, muốn lấy một quả mơ tẩm đường, chợt phát hiện bên trong lọ trống rỗng. Giang Uẩn không muốn vì chút chuyện nhỏ này mà làm phiền Công Tôn Dương, nên đành cầm thìa uống từng ngụm nhỏ.
Kể cả lúc uống thuốc, động tác của điện hạ cũng nho nhã hơn người bình thường.
Công Tôn Dương chần chừ một lát, có chút không đành lòng, ông nói: "Hiệu dược vẫn chưa mua được Tử Long Cốt, những tiệm thuốc bên phía Giang Bắc đột nhiên đều cấm mua bán loại thảo dược này, ngay cả nông dân cũng không được phép lên núi hái thuốc."
Mà ở Giang Nam, Tử Long Cốt rất hiếm có.
Tử Long Cốt là thần dược chuyên chữa trị nứt xương, có tác dụng chống viêm giảm đau, năm ngoái lúc điện hạ còn ở trong quan, nhờ có Tử Long Cốt mới cứu được cánh tay phải, tuy hiện nay vết thương của điện hạ đã đỡ hơn nhiều, nhưng một khi trời trở lạnh vẫn cần dùng Tử Long Cốt để giảm đau, nếu không có, đồng nghĩa với việc mỗi ngày điện hạ đều phải đối mặt với cơn đau nứt xương dữ dội.
Giang Uẩn gật đầu.
"Không sao đâu, chỉ là vết thương cũ thôi, chườm nóng cũng được."
Công Tôn Dương vốn là người luyện võ, dĩ nhiên biết rõ điện hạ chỉ đang an ủi ông, chỉ chườm nóng đơn giản sao có thể xoa dịu được vết thương trên xương?
Giang Uẩn uống xong thuốc như thường lệ, sau đó dặn dò Công Tôn Dương làm hai việc.
Đầu tiên là viết thư cho thần y Mạnh Huy, hy vọng ông có thể đến Mộ Vân Quan một chuyến.
Tuy chỉ là vết thương cũ không gây ảnh hưởng gì lớn, nhưng thời tiết phương Bắc lạnh giá, Giang Uẩn không muốn vì sức khỏe của mình mà trì hoãn chiến sự, có Mạnh Huy ở cạnh cũng bớt lo hơn.
Hai là chuẩn bị xe ngựa, y phải vào cung gặp Giang đế.
Việc đầu tiên dĩ nhiên hợp lý, nhưng việc thứ hai... Công Tôn Dương kinh ngạc.
Sau đó ông cau mày nói: "Nghe nói hai ngày nay Sở vương chạy đến cung bệ hạ khóc lóc, nói điện hạ cố ý nhắm vào gã, không hề đặt người anh như gã vào mắt. Bây giờ điện hạ đi gặp bệ hạ, lỡ đâu ngài ấy lại thiên vị Sở vương..."
Không phải Công Tôn Dương lo lắng vô ích, mà là dựa vào những gì ông mắt thấy tai nghe trong mấy năm nay, bệ hạ đối xử với điện hạ quá mức nghiêm khắc, mà đối với Sở vương thì thiên vị có thừa.
Sở vương tức giận bất bình, còn có thể chạy đến trước mặt bệ hạ khóc lóc, còn có Thân phi yêu thương che chở. Còn điện hạ chịu ấm ức, có thể tìm ai giãi bày đây? Tuy hiện tại điện hạ có tiếng nói trong triều, nhưng Công Tôn Dương vẫn lo lắng bệ hạ vì mấy lời bịa đặt của Sở vương mà sinh lòng nghi kỵ. Suy cho cùng, Giang đế không phải là một vị vua bình thường, ông chuyên quyền độc đoán, tham vọng chiếm hữu rất lớn, triều thần ai cũng sợ hãi trước uy nghiêm của Giang đế. Những năm nay, Giang đế cố ý buông lỏng quyền hành, nếu không, điện hạ cũng không thể nhanh chóng xây dựng thế lực riêng.
Cho nên, đôi khi Công Tôn Dương cũng khó nắm bắt được thái độ của Giang đế đối với điện hạ.
Giang Uẩn nhàn nhạt nói không sao cả.
Lúc này, Giang đế vẫn đang dùng bữa.
Giang Uẩn đến trước cửa cung Tử Vi, lập tức nhìn thấy xe ngựa của Sở vương.
Theo quốc pháp, Sở vương không có tư cách ngồi xe ngựa vào cung, nhưng Giang đế đã đặc quyền cho gã.
Liễu Công hay tin Thái tử đến, ông đích thân ra đón, vui vẻ cười nói: "Bệ hạ đang dùng bữa với Sở vương và Thân phi, điện hạ đến thật đúng lúc, để lão nô lấy thêm một bộ dụng cụ ăn."
Giang Uẩn mỉm cười, nói không cần.
"Cô đã dùng bữa, tạm thời đợi ở cung điện đối diện là được."
Nửa giờ sau, cung nhân thu dọn thức ăn, Giang đế mặc một bộ trường bào màu trắng, ngồi sau bàn, dáng vẻ uy nghiêm, tuy đã gần bốn mươi tuổi nhưng vẫn phong độ ngời ngời, dung mạo tuấn tú.
Đợi Giang Uẩn bước vào cung, ông hỏi: "Nếu đã đến rồi, vì sao không để Liễu Công thông báo cho trẫm một tiếng?"
Giang Uẩn đáp: "Phụ hoàng dùng bữa, nhi thần không dám quấy rầy."
Cha con với nhau, mấy lời này khách sáo biết bao.
Giang đế không tỏ vẻ gì, chỉ nói: "Ngồi đi."
Giang Uẩn ngồi ở phía dưới.
Thân phi và Sở vương đứng dậy hành lễ.
Giang Uẩn bảo hai người ngồi, cũng không thèm nhìn bọn họ một cái, chỉ nâng mắt nhìn Giang đế, nói: "Hôm nay nhi thần qua đây, là có chuyện muốn cầu xin phụ hoàng."
"Chuyện gì?"
"Nhi thần muốn mời vương huynh, cùng nhi thần đến Mộ Vân Quan giám sát trận chiến."
Sắc mặt của Thân phi lập tức thay đổi, Sở vương Giang Lang cũng sa sầm mặt, trực tiếp đập bàn đứng dậy.
"Giang Dung Dữ, ngươi đừng quá đáng!"
Giang Uẩn nhàn nhạt đáp: "Cô là Thái tử, theo quy định, vương huynh phải gọi cô một tiếng "điện hạ", nếu không sẽ quy vào tội bất kính, phạt ba mươi roi."
Giang Lang tức giận, lo lắng nhìn Giang đế.
Năm ngoái Giang Uẩn công khai kháng lệnh, giành lại quyền tiếp quản quân sự ở Mộ Vân Quan, còn giam lỏng gã suốt một năm, khiến gã khổ sở không thôi. Sau khi trở về, Giang Lang lập tức chạy đến kể lể với Giang đế, mà phụ hoàng chẳng những không làm chủ cho gã, còn phạt gã ở phủ đóng cửa suy nghĩ ba tháng. Nay Giang Uẩn muốn dùng lại thủ đoạn cũ, sao Giang Lang không tức giận cho được?
Nhiều lúc gã thực sự không hiểu nổi trong lòng phụ hoàng đang nghĩ gì.
Rõ ràng ghét cay ghét đắng đứa con trai do yêu hậu sinh ra, vậy mà vẫn để y ở bên cạnh đích thân dạy dỗ. Nếu yêu thích, thì cớ gì hết lần này đến lần khác đối xử nghiêm khắc với Giang Uẩn? Cùng hoàn thành bài tập, nhưng gã thì được phụ hoàng hết lời khen ngợi, còn Giang Uẩn thì bị ông bới móc lỗi sai trách phạt.
Xưa nay Giang Lang luôn vì điều này mà hả hê, cảm thấy phụ hoàng chướng mắt Giang Uẩn, cố tình để y ở cạnh là vì muốn nghiêm khắc dạy dỗ. Nhưng kể từ bốn năm trước, phụ hoàng bắt đầu nhắm mắt làm ngơ, mặc cho Giang Uẩn tự do phát triển thế lực, Giang Lang đột nhiên cảm thấy bất an, dường như mọi thứ không giống với những gì gã nghĩ.
Sự việc lần trước ở Mộ Vân Quan càng khiến cho Giang Lang hoảng sợ.
Thân phi kéo con trai ngồi xuống, sau đó nhìn về phía Giang đế, dịu dàng nói: "Bệ hạ..."
Tuy nhiên, vẻ mặt lạnh lùng của Giang đế khiến Thân phi sợ hãi câm miệng.
Lần trước bà ta nhìn thấy sắc mặt này của Giang đế chính là lúc không lâu sau khi Thái tử bị thích khách bắt cóc, bà ta nhân lúc thị tẩm, cầu xin Giang đế lập Lang nhi làm Thái tử.
Giang đế nhìn Giang Uẩn, đây là đứa con trai do một tay ông nuôi nấng dạy dỗ, khiến ông vừa thương vừa hận, không nhịn được nhớ lại những chuyện không vui trước đây.
"Lý do."
Ông lạnh lùng thốt ra hai chữ.
Giang Uẩn đáp: "Để phụ hoàng yên tâm, cũng để nhi thần yên tâm."
Sắc mặt Liễu Công lập tức thay đổi.
"Xoảng" một tiếng, Giang đế trực tiếp ném vỡ chén trà.
Liễu Công bị dọa quỳ rạp xuống đất, Thân phi và Giang Lang run lẩy bẩy.
Không khí trong điện im ắng đến mức dường như có thể nghe thấy tiếng kim rơi, cảm giác bức bách khiến người khác khó thở.
"Trẫm chuẩn tấu."
Trong sự im lặng chết chóc, Giang đế đột nhiên lên tiếng.
Công Tôn Dương lo lắng chờ đợi bên ngoài, lúc thấy Giang Uẩn vẫn nguyên vẹn ra khỏi cung, bên cạnh còn có Liễu Công dẫn đường, ông lập tức vui vẻ bước đến.
"Điện hạ!"
Giang Uẩn lễ phép chào tạm biệt Liễu Công, sau đó nhìn bầu trời đen kịt, cảm nhận gió thu thổi qua tay áo, y nhếch khóe miệng, nói với Công Tôn Dương: "Về cung thôi."
"Chuẩn bị hành lý, ba ngày sau khởi hành lên Bắc."
Giang đế một thân áo trắng, chắp tay đứng ở hành lang, ánh mắt vẫn dõi theo chiếc xe ngựa vàng kim dần biến mất bên ngoài cung Tử Vi. Ông dặn dò Liễu Cửu: "Lấy danh nghĩa của trẫm, gửi cho Mạnh Huy một bức thư, bảo hắn nhanh chóng đến Mộ Vân Quan, bảo vệ Thái tử chu toàn."
Liễu Cửu sửng sốt một chút, sau đó đáp vâng.
Mùa đông tháng mười hai, Hoàng Hà đóng băng, ba mươi vạn thiết kỵ quân Tùy tiến thẳng xuống Mộ Vân Quan. Cuộc chiến trì hoãn hơn một năm rưỡi cuối cùng đã đến.
Trước khi Tùy Hành xuất chinh, hắn đã ngồi trên tháp Linh Lung cả đêm. Sáng sớm trở về biệt viện, ánh mắt hắn rơi vào cành hoa mơ khô héo bên gối, Tùy Hành đưa tay, ôm chặt cành hoa vào lòng, sau đó mang theo đao, sải bước rời khỏi biệt viện.