Hai người một chút cũng không trì hoãn, lập tức đi đến ao nước.
Lúc này kỳ thật đã đến lúc chạng vạng, gió mát thổi tan cái nóng ban ngày, cũng như thổi đi ánh nắng nóng rực.
Trong Phương Phỉ uyển mờ ảo, chỉ có ánh sáng leo lét của đèn đường, cũng không sáng bằng ánh sáng ban ngày.
Đoàn người vội vàng chạy tới ao nước, Tạ Cát Tường dạo một vòng quanh khối đá lớn mới nhớ tới hồi trưa, nghi hoặc nói: “Ao nước nơi này sao có thể giấu giấy gì được đây?”
Đúng vậy, chung quanh ao nước ngoại trừ núi đá thì chính là bồn hoa, chỉ có một cái đình hóng gió nhỏ trên ao nước, là đường nối liền Trích Tinh Lâu và Bách Hoa viên.
Triệu Thụy chỉ chỉ đình hóng gió: “Nơi đó?”
Kiến trúc duy nhất trên ao nước, chính là cái đình hóng gió kia.
Hai người cùng nhau vào đình hóng gió, nhìn trên dưới trái phải một vòng, nhưng vẫn không tìm được bất luận cái hộp nào.
“Đồ thì tìm không thấy, nhưng muội còn nhớ, khi còn nhỏ hai người chúng ta đã từng vớt cá ở chỗ này không?”
Lúc ấy Tạ Cát Tường chỉ mới ba tuổi.
Đặc biệt nhỏ, lại có chút béo, nho nhỏ một cục như oa nhi trong bức tranh Tết, chân ngắn nhỏ cả ngày chạy theo sau mông Triệu Thụy.
Triệu Thụy 4 tuổi đã tự giác mình là đại hài tử, nên hơi ngại nàng làm phiền.
Nhưng cho dù ngại tiểu cô nương phiền, hắn lại rất thông minh không biểu hiện ra ngoài, như vậy mẫu thân cùng thẩm nương đều sẽ khen ngợi hắn, nói hắn là ca ca tốt.
Vì thế, mỗi khi Triệu Thụy muốn đọc sách hoặc là chơi đồ chơi một mình, liền tùy tay ném cho Tạ Cát Tường một món, để nàng ngồi chơi một bên.
Có một lần hắn muốn thử dùng cần trúc câu cá, nên cho người làm một cái lưới, để Tạ Cát Tường ở bên cạnh vớt cá.
Hắn đưa lưng về phía Tạ Cát Tường, không nhìn thấy động tác của tiểu nha đầu, cứ câu như vậy nửa canh giờ, Triệu Thụy cũng chưa câu được cái gì, mà cá chép trong ao rõ ràng càng ngày càng ít.
Triệu Thụy rất nghi hoặc, liền nghe được sau lưng truyền đến tiếng bọn nha hoàn kinh hô.
Hắn quay đầu, liền nhìn thấy Tạ Cát Tường dùng lưới đánh cá kia vớt được một phần lớn cá chép lên, bỏ vào thùng nhỏ bên cạnh, hơn nữa còn cười rất đắc ý.
“Chơi vui nha.”
Tiểu Triệu Thụy: “……”
Ngươi thì chơi vui rồi, lát nữa nếu nương ta phát hiện ta mang theo ngươi gây họa cho ao cá chép, nhất định sẽ đánh ta một trận.
Tiểu Triệu Thụy nhanh chóng tiến lên nắm lấy tay Tạ Cát Tường: “Cát Tường muội muội, không thể chơi cá.”
Tạ Cát Tường quay đầu, khuôn mặt nhỏ tròn vo nhộn nhạo cười vui vẻ: “Thụy Thụy ca ca, chơi vui lắm nha.”
Tiểu Triệu Thụy nhanh chóng thừa dịp lúc nàng không chú ý, đổ thùng cá chép kia vào lại trong ao.
Tạ Cát Tường vừa vớt được con cá mới, cúi đầu nhìn lại, bảo khố của mình rỗng tuếch, cái gì cũng không còn.
Nàng ủy khuất ngẩng đầu, nhìn Triệu Thụy, một lát sau, giương miệng khóc oa oa.
Tiểu Triệu Thụy: Khổ sở, hít thở không thông, xong rồi.
Kết quả ngày đó, chính là Triệu Thụy bị bắt chép phạt hai mươi lần Thôn Trang Thu Thủy.
Trang Tử không phải cá, nào biết cá chi nhạc?
*Dịch nghĩa: Trang Tử không phải cá, làm sao biết được cá sống như thế nào?
Cá chép người ta sống thoải mái dưới ao, một hai phải phải câu lên làm cái gì?
Nói đến cái này, Triệu Thụy cúi đầu nhìn thoáng qua Tạ Cát Tường, bất đắc dĩ nói: “Khi còn nhỏ mỗi lần bị chép phạt, đều dính dáng đến muội, muội thật là……”
Thật là sinh ra khắc ta.
Tạ Cát Tường liếc mắt nhìn hắn: “Sao nào, Triệu đại thế tử cảm thấy ủy khuất?”
Triệu Thụy: “…… Không không không, rất hạnh phúc.”
Tạ Cát Tường phốc cười ra thành tiếng.
Nàng cười cười, dư quang đáy mắt đảo qua, nhìn lên xà nhà trong đình hóng gió.
“Di, Thụy ca ca huynh nói có thể ở trên xà nhà không?”
Triệu Thụy nhìn thoáng qua Triệu Hòa Trạch, Triệu Hòa Trạch nhanh nhẹn phi thân nhảy lên, thật đúng là lấy được một cái hộp đồng nhỏ tinh tế từ trên xà nhà đình hóng gió.
Tạ Cát Tường ghé vào bên cạnh Triệu Thụy, nhìn hắn dùng khăn lau bụi trên hộp, sau đó nhẹ nhàng mở hộp ra.
Mười năm chưa được động, hộp đã có chút rỉ sét, rêu xanh nổi loang lổ trên mặt, hiển lộ tàn nhẫn của năm tháng.
Nhưng Triệu Thụy lại khó có lúc không ngại dơ.
Lúc này đây, trong hộp lại đặt hai dạng đồ vật.
Một cái trong đó tự nhiên là giấy mạ vàng, cái kia lại là một cái khóa đai ngọc thực tinh xảo.
Thứ này là ngọc nạm vàng, tạo hình cổ xưa, vừa thấy liền biết là đồ cổ.
Lúc này trên giấy viết thư có dòng chữ rất nhỏ, câu đầu tiên viết:
Không biết hiện giờ Thụy Thụy chừng bao nhiêu tuổi, nương chuẩn bị trước cho Thụy Thụy quà nhược quán, hy vọng Thụy Thụy thích.
Câu kế tiếp vẫn là một câu thơ:
Đào hoa ổ đào hoa am, đào hoa am hạ đào hoa tiên.
Tạ Cát Tường lập tức liền cười: “Câu này đơn giản, còn không phải là rừng đào phía sau Phương Phỉ Uyển?”
Triệu Vương phủ có vài thôn trang ở ngoại thành, nhưng cảnh sắc ở Phương Phỉ uyển là đẹp nhất, chung quanh thôn trang trồng nhiều nhất là cây đào.
Nếu là tới đây sớm hơn hai tháng, lập tức có thể nhìn thấy hoa đào hồng trắng phủ khắp núi đồi, có thể nói là Nhân gian tứ nguyệt phương phỉ tận.*
*Đây là câu thơ đầu trong bài Đại Lâm tự Đào Hoa của Bạch Cư Dị
Trang viên nơi này vốn nhờ vào điều này mà được gọi như thế.
Một mảnh đào trong đó đã sớm chín mọng, được bày ra trên bàn từ lâu, tỏa ra hương đào sâu kín.
Lúc Tạ Cát Tường đọc sách còn nhịn không được ăn một quả, thịt đào vào miệng tràn đầy ngọt ngào và hương thơm, rốt cuộc vẫn là quả đào hợp lòng người nhất.
Lúc này nhìn đến câu thơ này, lập tức liền biết cần tìm ở nơi nào.
Mà khi đoàn người đi tới rừng hoa đào, mắt lại choáng váng.
Lúc này sắc trời đã tối, mặt trời vàng rực đã sớm về nhà, che lấp toàn bộ ánh sáng, dưới ánh trăng sáng tỏ, quả lớn chất đầy trên cây đào, cho thấy năm nay mùa màng bội thu.
Từ sau khi mẫu thân qua đời, Phùng Hiểu Nhu vào cửa, Triệu Thụy liền trực tiếp nhận một nửa trang viên vào trong tay mình, do Lý Mộc thay hắn chưởng quản, gần đây Triệu Mao Mao cũng có thể tự mình đảm đương một phía, công việc vặt lại giao vào trong tay Triệu Mao Mao.
Nhìn rừng hoa đào mọc thành mảnh, Triệu Thụy hỏi: “Rốt cuộc có bao nhiêu cây.”
Triệu Mao Mao rất rõ ràng, lập tức trả lời: “Hồi bẩm thế tử, một mảnh rừng đào có hai mươi mẫu đất, một mẫu đất ước chừng khoảng trăm cây, tổng cộng tầm hai ngàn cây.”
Triệu Thụy: “……”
Tạ Cát Tường: “……”
Hai ngàn cây, vậy làm sao mà tìm?
Bất quá vẫn là Tạ Cát Tường thông tuệ, nàng nghĩ nghĩ nói: “Mười năm trước, lúc Thục thẩm nương vẫn còn, một mảnh cũng có nhiều cây đào như vậy?”
Triệu Mao Mao cũng rất kích động: “Tiểu thư nói đúng, thời trước bên này chỉ có tám mẫu cây đào, mười hai mẫu sau là năm thế tử mười lăm tuổi đã mua, trồng bốn năm mới trồng đến quy mô như năm nay.”
Nói cách khác, thì ra chỉ có 800 cây.
Tạ Cát Tường cùng Triệu Thụy nhìn rừng hoa đào mênh mông vô bờ, Triệu Thụy nhẹ giọng cười.
“Thật ra cũng không gấp, nói chung đồ không có khả năng được giấu trong lều hộ nông dân trong rừng, đợi nhớ lại đó là mảnh nào, lúc đó tìm cũng được.”
Tạ Cát Tường dùng sức gật gật đầu: “Được, tối nay ta ngẫm lại xem sao.”
Lúc này xác thật không còn sớm, Triệu Thụy đưa Tạ Cát Tường trở về Phương Phỉ uyển, lại để nàng và Hà Mạn Nương cùng đi ngâm hồ nước nóng, buổi tối đi ngơi sớm.
*** Truyện chỉ đăng tại www.wattpad.com/user/nhamy111***
Sáng hôm sau, Tạ Cát Tường thức dậy từ sớm, tản bộ dọc theo ao nước.
Hà Mạn Nương không đi theo, nhưng vẫn có Như Lan ở bên cạnh nàng.
Tạ Cát Tường hỏi nàng: “Như Lan, ngươi có nhớ lúc ấy Thục thẩm nương lựa chọn như thế nào không?”
Như Lan lắc lắc đầu, rất buồn rầu: “Tiểu thư, lúc ấy Vương phi đặc biệt dặn nô tỳ tránh mặt để làm việc này, đại khái chính là sợ nô tỳ lỡ miệng, nói cho ngài và thế tử biết trước.”
Nàng là người Vương phi đặc biệt để lại cho Triệu Thụy, trong lòng đã sớm muốn cho nàng làm quản gia nương tử trong nhà hai vị tiểu chủ tử sau này, cho nên những việc này tự nhiên cần nàng tránh đi, cũng là muốn cho hai người kinh hỉ.
Tạ Cát Tường như suy tư gì nói: “Kỳ thật mấy chỉ dẫn thẩm nương để lại, đều có rất nhiều ký ức khi còn bé, hiện tại nhớ tới, mới phát hiện chuyện cũ vẫn còn ở trong lòng, chưa bao giờ quên.”
Nàng vừa nói, trong lòng Như Lan vừa động.
“Tiểu thư!” Như Lan kêu nàng.
Tạ Cát Tường quay đầu nhìn nàng, liền thấy đôi mắt nàng như đang phát sáng.
“Chuyện trước kia ở rừng hoa đào, đúng thật là có! Việc này nô tỳ và Mao Mao đều nhớ rõ.”
Tạ Cát Tường nghi hoặc hỏi: “Ngươi và Triệu Mao Mao?”
Như Lan dùng sức gật gật đầu: “Đúng vậy, có lẽ tiểu thư không còn nhớ, ước chừng là…… Ước chừng là vào tết Thượng Nguyên một năm kia, Vương phi cùng Tô phu nhân đưa ngài và thế tử cùng đi phố Khánh Lân xem hoa đăng, ngày ấy rất náo nhiệt, ở trước bến tàu Nam giao, có rất nhiều nam nữ trẻ tuổi đều gắn thẻ nguyện ước của mình lên một cây đa lớn.”
Thẻ nguyện ước kỳ thật chính là tấm lụa đỏ, mọi người viết mong cầu của mình trên mặt giấy, sau đó treo lên trên cây đa cao cao kia, nếu cao quá không treo lên được, các bá tánh còn sẽ gắn lục lạc bên dưới tấm lụa đỏ, ném lên thật cao, để tự bản thân tấm lụa này quấn quanh nhánh cây.
Mỗi một năm, trên nhánh cây đa lớn kia đều là diễm lệ rực rỡ, treo đầy tâm nguyện của bá tánh.
Như Lan vừa nói như vậy, Tạ Cát Tường cũng có chút ấn tượng.
“Hình như lúc ấy ta và Thụy ca ca đều có ném?”
Như Lan gật gật đầu: "Vâng tiểu thư, lúc ấy trước cây đa, ngài và thế tử viết lên tấm lụa, sai nô tỳ ném lên trên cây, bất quá sau khi trở về, Vương phi cảm thấy rất có ý tứ, lại bảo ngài và thế tử viết lại một lần nữa, nói muốn giữ ở nhà.”
“Kỳ thật năm đó khi đến Phương Phỉ uyển, Vương phi bảo nô tỳ cùng Triệu Mao Mao đi vào rừng đào, chọn một cây đào tốt nhất, cao nhất, buộc nguyện vọng kia lên, hy vọng về sau có thể thực hiện.”
Tạ Cát Tường nghe xong, trong lòng cảm động không thôi, nàng đã không còn nhớ rõ rất nhiều chuyện đã làm khi còn nhỏ, nhưng các vị mẫu thân lại ghi tạc hết trong lòng giùm bọn họ.
“Đi mời thế tử tới, chúng ta đi tìm cây này đi.”
Cây hoa đào cũ này cũng rất dễ tìm, là cây đào già dựa gần vị trí trung tâm, bởi vì cao hơn các cây đào khác, phía trên còn có thể thấy được dải lụa màu đỏ.
Mười mấy năm qua, dãi nắng dầm mưa, chữ trên tơ lụa đã mơ hồ không rõ, lục lạc treo trên đó cũng đã sinh ra rỉ sét, nhưng màu đỏ kia vẫn thấm vào lòng mỗi người.
Tạ Cát Tường ngửa đầu nhìn, hỏi Triệu Thụy: “Thụy ca ca, huynh còn nhớ năm đó huynh ước gì không?”
Triệu Thụy cẩn thận nhớ lại, cuối cùng nói: “Có thể là ước vĩnh viễn hạnh phúc linh tinh gì đó.”
“Ta và Thụy ca ca không giống nhau,” Tạ Cát Tường cười, “Mong ước của ta khi còn nhỏ, mỗi lần đều ước ngày mai sẽ được ăn cái gì, mong ước ngày ấy không chừng chính là ngày mai còn muốn ăn bánh trôi.”
Triệu Thụy nhịn không được cười ra tiếng tới.
“Mèo con tham ăn.”
Triệu Mao Mao vag Triệu Hòa Trạch mỗi người cầm một cái xẻng, thật cẩn thận đào đất bên dưới cây, chỉ sau hai khắc (30p), đã đào ra được một cái hộp sắt tại vị trí gần rễ cây.
Hộp đã có chút loang lổ, mặt trên khóa đồng cũng đã rỉ sét, Triệu Hòa Trạch nhẹ nhàng bẻ, lập tức gãy lìa.
Mở hộp ra, bên trong đặt một túi vải nhung, trong túi mới là thư Ổ Ngọc Thục để lại.
Đây là một phong thư rất dày, trên phong thư còn viết chữ Gửi nhi tử Triệu Thụy, Triệu Thụy cũng không kiêng dè, trực tiếp mở ra đọc.
Nhi tử Triệu Thụy của ta, mấy năm không gặp, không biết con đã trưởng thành chưa.
Thật đáng tiếc, vi nương không thể cùng con lớn lên, không nhìn được bộ dạng con trưởng thành anh tư táp sảng.
Bất quá, vi nương không cảm thấy tiếc hận, cũng không cảm thấy tiếc nuối, bởi vì ta rất rõ ràng, có Cát Tường ở bên cạnh con, con nhất định sẽ trưởng thành, sẽ trở thành con của hiện tại.
Hốc mắt Triệu Thụy hơi hơi phiếm hồng.
Tạ Cát Tường an tĩnh đứng bên cạnh Triệu Thụy, không đọc thư, chỉ làm bạn mà thôi.
Trong thư còn có rất nhiều lời dặn dò của Ổ Ngọc Thục, giữa những hàng chữ đều là tấm lòng từ ái của mẫu thân. Đến hai trang cuối cùng, nàng viết:
Không biết hiện tại con và Cát Tường như thế nào rồi, nếu hai con còn chưa thành thân, con phải nắm chặt, tranh thủ để Tạ bá phụ Tô bá mẫu cảm thấy con là lương xứng, sớm ngày cưới tiểu nha đầu vào cửa.
Nếu đã thành thân, con phải đối xử với Cát Tường thật tốt, hai con cùng nhau trải qua cả đời tốt tốt đẹp đẹp, vi nương tin tưởng, các con là giai ngẫu thích hợp nhất trên đời này.
Từ lúc mở thư ra, cũng đã tới tờ cuối cùng.
Thụy Thụy, cả đời người rất ngắn, ngắn đến nỗi chỉ chớp mắt thôi đã đến giây phút cuối cùng, vi nương không hy vọng cả đời con sống trong oán hận, ân oán đời trước là chuyện đời trước, không liên quan đến con.
Quá trình tìm giấy viết thư, con có nhớ lại khi vui vẻ lúc cười đùa thuở niên thiếu không, vậy con đã hiểu ra niềm vui và hạnh phúc của đời người chưa?
Vậy thì đúng rồi, đây mới là cuộc sống con nên có.
Nguyện con cả đời bình an hỉ nhạc, hạnh phúc mỹ mãn, bất luận năm nào, tấm lòng vẫn như chàng thiếu niên thuở ban đầu.