"Điều này không có nghĩa là y không cần tình thương của Hầu gia."
"Đoạn quốc, chỉ là một nước nhỏ ẩn sâu trong thung lũng, nơi này rất thịnh vu thuật, nhiều vu y có y thuật cao siêu, bất kể là nam nữ, trên cánh tay đều có một ấn ký gỗ trầm. Nam tử ở nơi này, bởi vì trời sinh có thể chất đặc biệt, nên sức lực không thể so sánh với nam tử bên ngoài. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho Đoạn quốc đối mặt với nguy cơ diệt vong. Nơi đây có hơn một trăm thung lũng lớn nhỏ, khắp nơi bao phủ bởi linh thảo quý hiếm, trong núi có tài nguyên sắt đen và gỗ trầm độc nhất, là nguyên liệu tuyệt vời để chế tạo vũ khí. Ở Đoạn quốc cũng có không ít bậc thầy giỏi rèn binh khí, những người đàn ông ở nơi này, từ khi còn nhỏ đã có thể học được các kỹ năng chế tạo vũ khí. Bảo vật trời ban ấy không chỉ mang đến cho Đoạn quốc của cải tối cao, mà còn thu hút vô số sự thèm thuồng của sài lang hổ báo."
"Có kho báu, nhưng không thể bảo vệ, đây chính là nguồn gốc của mọi tội lỗi."
"Cuối cùng, những bảo vật này đã bị tân hoàng Giang quốc nhìn trúng. Tân hoàng dã tâm bừng bừng, một lòng muốn mở rộng lãnh thổ, chiếm lấy Đoạn quốc làm của riêng. Thời điểm Tân hoàng Giang quốc tấn công đô thành, ta đã đích thân dẫn quân nghênh chiến."
Nói tới đây, Đoàn hầu hơi dừng lại.
Cho đến nay, sau ngần ấy năm, ông vẫn không tài nào quên được lần đầu tiên gặp người đó. Cũng không bao giờ quên được, ánh mắt người đó nhìn ông mang theo sự chiếm hữu điên cuồng không thể che giấu.
"Có một việc, có lẽ điện hạ không biết, Uẩn nhi cũng không biết."
Đoàn hầu bình tĩnh nói.
"Ta và Đương kim Hoàng đế Giang quốc, Giang Chiếu Lưu, từng là sư huynh đệ đồng môn học nghệ."
Tùy Hành nghe được lời này cũng rất kinh ngạc, chuyện này không chỉ hắn mà ngay cả Giang Uẩn cũng không biết, khắp thiên hạ này sợ là chẳng mấy ai nắm rõ nội tình. Hơn nữa hắn chưa từng nghe nói, Giang đế cũng am hiểu cầm nghệ.
Đoàn hầu nói: "Đại khái là một đoạn nghiệt duyên."
"Sư phụ ta tên là Ký Hành, là một cao tăng ở ẩn, ông không chỉ giỏi cầm nghệ, mà còn giỏi binh pháp, thông thạo thuật bói toán. Nghe nói, ông từng giúp đỡ thôn dân dự đoán được thảm họa động đất, để dân làng kịp thời trốn thoát. Lúc ngôi làng bị thổ phỉ tấn công, sư phụ từng chỉ dẫn dân làng sử dụng cờ trận, dẫn theo ba trăm người dân già trẻ lớn bé đánh bại gần một ngàn đám thổ phỉ hung ác. Đám thổ phỉ đó kiêng dè tài năng của sư phụ, từ đó không còn bén mảng đến gần thôn làng nữa. Khi ấy Giang Chiếu Lưu là Tân hoàng Giang quốc, thời điểm mới đăng cơ dã tâm bừng bừng, nóng lòng muốn mở rộng lãnh thổ, khi đó hắn đã cai trị toàn bộ vùng đất Giang Nam, không biết nghe được tin này từ đâu, hắn đổi tên thành Chiếu Dạ, quyết tâm muốn bái sư phụ ta làm thầy, theo ông học tập binh pháp."
"Khi đó sư huynh đệ chúng ta cùng nhau học nghệ, tổng cộng có ba người, đại sư huynh tên là Cố Vũ, am hiểu đàn cầm, là người ân cần tốt bụng. Ngày thường ta rất thân với đại sư huynh, thường xuyên chạy đến chỗ huynh ấy nghiên cứu cầm nghệ, cùng nhau sáng tác khúc Phượng Cầu Hoàng."
"Về sau, phụ vương ta gửi thư, nói rằng có kẻ xâm lược Đoạn quốc, lệnh cho ta lập tức trở về, đích thân phụ trách quân vụ. Ta rời khỏi sư môn ngay trong đêm, chuyến này đi đã từ biệt mấy năm. Trong khoảng thời gian đó, đại sư huynh từng gửi thư, bảo rằng ta rời đi không lâu, Chiếu Dạ cũng rời khỏi sư môn, không còn quay về nữa. Ba người chúng ta cứ vậy tách ra. Vốn nghĩ rằng, cả đời này sẽ không gặp bọn họ nữa, mãi cho đến lần đó, ta gặp lại hắn trên chiến trường."
"Chúng ta cùng nhau học nghệ, học cùng một chiến lược, cùng một binh pháp, thật sự quá quen thuộc thủ đoạn của đối phương. Ta và hắn đối chọi ba ngày ba đêm bên dưới thành Lạc Nguyệt, cuối cùng bất phân thắng bại."
"Về sau quyết định dừng chiến, hắn muốn gặp riêng ta một lần. Khi đó ta nghĩ, suy cho cùng cũng từng là sư huynh đệ đồng môn, có lẽ hắn sẽ niệm chút tình xưa, bằng lòng chấm dứt chiến tranh. Vì Đoạn quốc lúc bấy giờ vốn không phải là đối thủ của Giang quốc, ta đồng ý yêu cầu của hắn. Ba ngày sau, chỉ mang theo một đội hộ vệ, đi đến doanh trại Giang quốc gặp hắn."
"Nhưng ta không ngờ rằng, câu đầu tiên khi gặp lại, hắn hỏi ta, khúc Phượng Cầu Hoàng là sáng tác cho ai. Ta không hiểu vì sao hắn cứ cố chấp khơi lại chuyện cũ, bèn đơn giản đáp rằng ta chỉ tả cảnh mà thôi. Hắn lại hỏi, có phải ta mến mộ Cố Vũ hay không, khi ấy ta cảm thấy khó tin, cho rằng hắn đang làm ô uế tình cảm mà đại sư huynh dành cho ta, nên không muốn tiếp tục thảo luận chủ đề này, chỉ muốn bàn chính sự. Nhưng hắn sai người mang rượu đến, bảo ta uống xong rồi lại bàn."
"Lúc ấy ta một lòng muốn dừng chiến nên đã uống rượu hắn đưa. Ta không ngờ hắn dám hạ dược trong rượu. Đợi sau khi tỉnh lại, chúng ta đã phát sinh quan hệ, hắn ôm chặt ta, nói rằng hắn thích ta, đồng thời ghen ghét Cố Vũ, còn nói sẽ đưa ta vào cung, lập ta làm hậu. Khi ấy ta phẫn nộ tột độ, không thể chịu được sự nhục nhã như thế, nên thẳng thừng từ chối yêu cầu của hắn."
"Những chuyện sau đó, chắc điện hạ cũng đoán được. Hành động của bản hầu hoàn toàn chọc giận hắn, hắn lập tức tập hợp binh lính tấn công Đoạn quốc, ép phụ vương giao ta ra. Phụ vương không đồng ý yêu cầu của hắn, lệnh cho ta toàn lực ứng chiến, ta dẫn theo ba ngàn tử sĩ, quyết chiến với hắn dưới chân thành Lạc Nguyệt. Khi đó ta nghĩ, nếu không thể bảo vệ được tòa thành này, ta sẽ dùng kiếm tự vẫn, lấy cái chết bồi tội, chỉ mong hắn tha cho con dân Đoạn quốc. Ta khổ sở chịu đựng hai tháng, trong thời gian đó, ta phát hiện mình đã mang thai cốt nhục của hắn. Khi ấy ta gánh trên vai trọng trách thủ thành, nếu cưỡng ép phá thai, sẽ nguy hiểm đến tính mạng."
"Nhưng đến cả quyền được chết hắn cũng không thành toàn cho ta, sau khi Lạc Nguyệt thất thủ, hắn phế đi võ công, cầm tù ta trong Quảng Hàn cung. Vì ép ta phục tùng, hắn còn dùng tính mạng của đại sư huynh uy hiếp ta, trong lúc đau đớn oán hận, ta đã sáng tác nửa đoạn sau khúc Phượng Cầu Hoàng để bày tỏ nỗi hận trong lòng. Sau khi biết ta mang thai, hắn mừng rỡ như điên, mỗi ngày đều đến Quảng Hàn cung buộc ta đàn đoạn đầu khúc Phượng Cầu Hoàng. Bởi vì khi ấy, mỗi lần Uẩn nhi ở trong bụng nghe thấy tiếng đàn, nó sẽ lập tức phản ứng. Hắn còn bịa đặt thân phận thánh nữ vu tộc, bất chấp sự phản đối của triều thần lập ta làm hậu, thậm chí Uẩn nhi còn chưa ra đời, hắn đã lập Uẩn nhi làm Thái tử. Hắn hy vọng ta có thể nể mặt Uẩn nhi mà hòa giải với hắn, tha thứ cho mọi lỗi lầm của hắn. Về sau Uẩn nhi ra đời, hắn thường ôm Uẩn nhi đứng bên ngoài Quảng Hàn cung, kể cho ta nghe những chuyện liên quan đến nó, nói rằng mỗi bữa nó ăn mấy bát cơm, nói ánh mắt nó rất giống ta, mỗi khi nghe thấy tiếng đàn, Uẩn nhi sẽ bật cười khúc khích, còn nói... Uẩn nhi đã có thể bập bẹ gọi ta một tiếng phụ vương, hắn tìm đủ mọi cách khiến ta mềm lòng. Nhưng khi đó ta mang trên mình nỗi đau mất nước, bất kể thế nào cũng không chịu hòa giải với hắn."
"Về sau, nhờ có sự giúp đỡ của nhóm thuộc hạ cũ, ta chọn cách tự thiêu, chạy trốn khỏi vương cung Giang quốc. Khi ấy lòng ta nguội lạnh, sa sút chán nản, đổ bệnh một trận, trên đường chạy trốn, Triệu Trung giao cho ta huyết mạch cuối cùng của vương huynh để lại, nhìn thấy đứa trẻ sơ sinh được bọc trong tã lót, đột nhiên ta nhớ tới một đứa nhỏ khác vẫn đang ở trong vương cung, lúc nào cũng dùng đôi mắt đen sáng ngời nhìn ta. Ta đặt tên cho đứa con của vương huynh là Tử Kỳ, mong nó có thể mang lại hy vọng mới cho Đoạn quốc. Ta hổ thẹn với quốc gia của mình, cũng hổ thẹn với vương huynh và phụ vương, tuyệt đối không thể bỏ rơi huyết mạch cuối cùng của Đoạn quốc."
"Khi ấy, toàn bộ vùng đất Giang Nam gần như thuộc quyền cai quản của Giang quốc, vì thoát khỏi đám truy binh, ta chỉ có thể chạy lên Bắc, sau khi vượt sông Hoàng Hà, nửa đường gặp được quân đội của Tề vương. Khi ấy Tề vương ra ngoài đi săn, bị vây khốn trong núi, ta thấy đây chính là cơ hội cuối cùng của mình, lập tức nghĩ cách giúp Tề vương thoát nạn. Về sau, quả nhiên Tề vương xem trọng ta, giúp ta gia nhập Tề quốc với tư cách trọng thần. Ta tốn nhiều năm chế tạo binh khí, giúp Tề vương tăng cường phòng thủ, từng bước đứng vững trong triều. Tuy Tề vương nảy sinh ý đồ bất chính với ta, nhưng vì phần ân tình ban đầu nên những năm nay vẫn luôn kính trọng ta."
"Sau khi có được quyền lực ở Tề quốc, ta cũng từng nghĩ đến việc báo thù, bởi vì hai chữ Đoạn quốc và mối thù diệt nước đã khảm sâu vào xương cốt, mỗi ngày đều mang đến cho ta nỗi đau tê tâm phế liệt. Sau khi Tề vương biết được thân thế thật sự của ta, ông ta hứa, về sau sẽ phát binh tấn công Giang quốc, giúp ta báo thù rửa hận. Thuộc hạ cũ của ta từng lên kế hoạch ám sát ở Giang quốc, nhưng cuối cùng đều thất bại, ta biết rõ, chuyện này không thể vội trong một sớm một chiều, nếu cứ cậy mạnh sẽ dễ để lộ hành tung, còn khiến người của mình bị thương, vì vậy ta đã hạ lệnh dừng ám sát."
"Nhưng cuối cùng, ta vẫn không cách nào buông bỏ việc này, cho nên lúc Tề quốc liên minh với Tùy quốc, ta không có ý định ngăn cản. Về sau, Tề vương vì chuyện ta lén ông ta điều tra đài Thanh Tước, nên sinh lòng bất mãn, muốn cử binh giúp Tùy quốc tấn công Giang quốc, thử thăm dò điểm mấu chốt của ta, khi ấy ta muốn bảo vệ người của mình, nên không hề ngăn cản. Chỉ có một yêu cầu, bảo ông ta không được làm tổn hại đến Thái tử Giang quốc."
"Quá khứ đáng xấu hổ như vậy, lẽ ra không nên nói với một hậu bối như điện hạ, nhưng những lời này, ta chỉ có thể kể với điện hạ mà thôi."
Đoàn hầu lấy ra binh phù của hai thành, đặt lên bàn.
Ông nói: "Hiện tại Tề quốc có hơn năm trăm bách tính Đoạn quốc đang sinh sống, những năm nay, bọn họ đều cần cù lương thiện, sống thật thà chất phác, bản hầu hy vọng, điện hạ có thể cho họ một chỗ dung thân, để bọn họ vui vẻ sống hết quãng đời còn lại. Còn về bản hầu, vì lợi ích riêng mình, làm ngơ trước tội nghiệt của Tề vương, chứng kiến tội ác tày trời của đài Thanh Tước mà bỏ mặc không lo, cuối cùng tự gánh lấy hậu quả. Tuy bản hầu thi hành lệnh quân bình, có được vài hư danh, nhưng bản hầu biết rõ, mình không có mặt mũi nào đối diện với bách tính Tề quốc. Bản hầu bằng lòng lấy danh phận tội nhân, sẵn sàng đến biên giới phương Bắc làm lao dịch cho đến khi rửa sạch mọi tội lỗi."
Tùy Hành im lặng lắng nghe.
Hắn đáp: "Tội lỗi đài Thanh Tước, nằm ở Tề vương, nằm ở đám quý tộc Tề quốc, vốn không phải lỗi của Hầu gia."
Đoàn hầu nói: "Nhưng bản hầu đã tiếp tay cho Tề vương làm chuyện ác."
Tùy Hành ngước mắt lên, hỏi: "Hầu gia sắp xếp ổn thỏa mọi việc, vậy có từng nghĩ đến Dung Dữ?"
Đoàn hầu giật mình.
Ông rưng rưng nước mắt nói: "Uẩn nhi may mắn hơn bản hầu, về sau, có điện hạ bầu bạn bên cạnh, nhất định sẽ vui vẻ hạnh phúc, sống yên ổn một đời, bản hầu... không còn gì bận lòng."
Tùy Hành lắc đầu: "Đây là hai việc khác nhau."
"Cô đối xử tốt với y, là chuyện của cô, nhưng Hầu gia thì sao? Y đã sống lẻ loi trong tòa cung điện đó suốt mười chín năm, trong ngần ấy năm, y chưa từng quên đi Hầu gia, kể cả lúc trốn thoát cũng muốn chạy đến Tề đô, bất chấp mọi nguy hiểm, chỉ vì được nghe Hầu gia gảy đàn. Một câu ngắn ngủi mà Hầu gia nói khi y đổ bệnh, y đã ghi nhớ suốt mười chín năm. Lẽ nào Hầu gia hy vọng, quãng đời còn lại y cứ cô đơn lẻ bóng như vậy mãi sao?"
"Có lẽ y không cần Hầu gia bù đắp, nhưng điều này không có nghĩa là y không cần tình yêu thương của Hầu gia."
...
Lúc Tùy Hành trở về phòng, Giang Uẩn đang ngồi sau chiếc bàn nhỏ cạnh cửa sổ, y mặc trường bào màu xanh, hai tay chống cằm, đôi mắt hơi cong lên, mỉm cười nhìn hắn. Ánh ban mai rực rỡ xuyên qua ô cửa sổ, bao phủ khắp người Giang Uẩn, những tia sáng len lỏi vào mái tóc đen của y, khiến khung cảnh trước mắt đẹp đẽ vô ngần.
Tim Tùy Hành đập thình thịch, hắn cảm giác mình lại bị y mê hoặc nữa rồi.
Bỗng nhiên hắn nghĩ, trên đời này sao lại có một người xinh đẹp như vậy, dù đã nhìn y rất nhiều lần, nhưng tim hắn vẫn đập loạn xạ không ngừng. Tùy Hành bật cười, đi tới bên ghế ngồi, trực tiếp bế Giang Uẩn đặt lên người, hỏi: "Bệnh còn chưa khỏi hẳn, em dậy làm gì?"
Giang Uẩn vẫn tựa đầu vào vai hắn, nói: "Lúc mở mắt không thấy điện hạ đâu, bỗng dưng thấy nhớ điện hạ, nên ngồi ở nơi này chờ đợi."
Giọng y mềm mại giống như mèo con đang làm nũng.
Tim Tùy Hành mềm nhũn, hắn nói: "Sau khi trở về, chúng ta lập tức thành thân. Như vậy, mỗi ngày mở mắt ra em đều có thể nhìn thấy cô, được không?"
Giang Uẩn hỏi: "Vậy điện hạ đã chuẩn bị sính lễ xong chưa?"
Tùy Hành kiêu ngạo nói: "Sắp rồi, nhiều nhất ba ngày nữa cô sẽ mang đến cho em."
"Cô bảo đảm, dù là đám mưu sĩ tướng lĩnh hay phụ hoàng đầu óc có bệnh của em cũng không dám bắt bẻ."
Giang Uẩn mỉm cười hài lòng, dừng lại một lúc, y hỏi: "Hai người trò chuyện thế nào rồi?"
Tùy Hành ngẩn người.
"Em biết rồi?"
"Ừm."
Giang Uẩn gật đầu, "Lúc ông ấy bước vào, ta đã biết rồi."
Sau đó Tùy Hành kể lại nguyên văn cuộc trò chuyện với Đoàn hầu.
Lần đầu tiên Giang Uẩn biết được chuyện cũ của Đoạn quốc, y vẫn luôn cho rằng ông ấy thân bất do kỷ, cũng hiểu rõ nỗi khổ trong lòng ông, sau khi nghe xong, Giang Uẩn im lặng rất lâu.
Giang Uẩn không ngờ, thân thế của Tề Tử Kỳ lại không hề giống như y nghĩ.
Tùy Hành nói: "Ta nhìn ra được, ông ấy không phải không có tình cảm với em, chỉ là hận nước thù nhà quá lớn nên không dám đối mặt với những quá khứ đó."
Giang Uẩn hỏi: "Chuyện của Tề quốc, điện hạ đã nghĩ ra cách giải quyết chưa?"
Tùy Hành không đáp mà chỉ hỏi: "Em có cách gì không?"
Giang Uẩn gật đầu: "Tề quốc không phải là một nước nhỏ bình thường, thế lực quý tộc đan xen, tình hình trong nước phức tạp, hiện tại nam bắc còn chưa thống nhất, Tùy quốc và Giang quốc đều không thể cử người đến quản lý một nước lớn như vậy. Nay điện hạ đã chiếm được Tề quốc, nếu muốn nhanh chóng ổn định tình hình nơi này, cách tốt nhất là chọn người hiểu rõ Tề quốc, thay điện hạ thi hành sắc lệnh."
Đương nhiên Tùy Hành hiểu ý của Giang Uẩn.
"Ý em là Đoàn hầu?"
"Đúng vậy, những năm nay Đoàn hầu thi hành lệnh quân bình, hạn chế quyền lực giới quý tộc Tề đô, thu phục được lòng dân. Ta đã nghiên cứu kỹ lưỡng nội dung của lệnh quân bình. Những sắc lệnh và luật lệ xây dựng trong đó quả thực được cân nhắc kỹ càng, rất có lợi cho đất nước. Một biện pháp mang lại lợi ích to lớn cho người dân như vậy, bị bỏ dở giữa chừng thì thật đáng tiếc. Nếu có thể tiếp tục thi hành, chắc chắn sẽ cải thiện được đời sống của bách tính Tề đô. Còn về đài Thanh Tước, suy cho cùng là do thế lực của tầng lớp quý tộc lớn mạnh, bọn chúng hoang dâm thành thói, xem mạng người như cỏ rác, mới khiến cho cả Tề quốc trở nên mục nát hủ bại. Chỉ cần giải quyết được vấn đề này, Tề đô mới có thể đi vào trật tự, bách tính mới có thể an cư lạc nghiệp. Hơn nữa trong lệnh quân bình còn có một vài sắc lệnh rất phù hợp với Giang quốc và Tùy quốc, chúng ta có thể chọn ra tinh hoa trong đó, thi hành rộng rãi ở Giang Nam và Giang Bắc."
"Mặt khác, ông ấy có tài hoa, có hoài bão, có lòng yêu thương bách tính. Lẽ ra ông ấy nên có một nơi để thể hiện tài năng của mình."
Tùy Hành nhìn y dõng dạc nói chuyện, vừa cảm thán tiểu lang quân nhà hắn tuyệt thế vô song, vừa sinh lòng nể phục, nói: "Xem em giỏi giang như vậy, theo cô thấy, Dung Dữ điện hạ chỉ cần dựa vào cái miệng này là có thể đánh bại ba mươi vạn quân của cô rồi."
Thậm chí Tùy Hành còn nghĩ, một báu vật tài hoa, rực rỡ như ngọc thế này, hên là ông trời yêu thương hắn, để hắn may mắn gặp y dưới vách núi, cướp y về.
Nếu không, sợ là y sẽ bị tên khốn nào đó nhặt đi mất.
Hắn không tin, khắp thiên hạ này còn có gã tình lang nào tốt hơn mình.
Giang Uẩn hôn Tùy Hành một cái.
"Ba mươi vạn quân Thanh Lang của điện hạ tung hoành Giang Bắc, đánh đâu thắng đó, ngay cả Phong Hỏa đài ta khổ cực xây dựng cả năm trời cũng bị điện hạ san bằng, nào dám so sánh với điện hạ."
Tùy Hành cứ cảm thấy tiểu tình nhân đáng ghét này đang giễu cợt hắn.
Thế là hắn lạnh mặt, thì thầm vài câu bên tai y.
Lỗ tai Giang Uẩn đỏ bừng.
Tùy Hành trêu y, nói: "Sau khi chúng ta thành hôn, cô sẽ làm ngay."